Người Buôn Gió
Phòng kiên giam ở dãy cuối trong trại tù, biệt lập. Những tù
nhân thường chả có cơ hội nhìn thấy khu kiên giam, họ đi làm qua cánh
cổng khu kiên giam nhìn vào bên trong gặp bức tường cao ngất, phải đi
vòng qua bức tường đó mới vào được khu kiên giam. Qua bức tường đó khu
kiên giam chia làm hai, phần iên giam bên ngoài giam những tên tù vi
phạm kỷ luật cần phải cách ly với các tù nhân khác. Còn khu bên trong
lại đi qua cánh cổng nhỏ của một bức tương cao ngất nữa mới đến nơi, đó
là nơi tận cùng của nhà tù sát với bốt gác, dưới chân bốt gác là một cái
ao to. Như thế có nghĩa khu kiên giam trong cùng ấy hoàn toàn yên tĩnh.
Sự yên tĩnh trong nhà tù không phải là ân huệ, trái lại đó là hình
phạt, một sự cô lập hoàn toàn.
Đến bữa người quản giao khu kiên giam mở cửa cho tù bếp mang vào cho
phạm nhân một nắm cơm có trộn ít muối. Tù ở kiên trong không được nhận
quà, không có gì khác ngoài chăn màn, quần áo được phép mang theo vào
buồng kiên giam. Mọi nguồn tiếp tế của gia đình đều bị cấm ngặt, thậm
chí giao tiếp với các tù nhân khác cũng hoàn toàn bị chặn triệt để.
Tù trong kiên giam khu hai là kẻ thù của tù nhân khác, không thể ở
chung, nhưng cũng có lúc tù trong kiên giam là kẻ thù của chính ban lãnh
đạo trại giam. Bởi thế tù trong kiên giam hai khi ra ngoài thể lực đều
kiệt quệ, gầy gò, phù thũng, suy nhược..có kẻ hoảng loạn ngớ ngẩn, có kẻ
lại trở thành hung hãn. Hàng tháng trời mỗi ngày hai nắm cơm to hơn quả
trứng vịt, ít muối. Không có cả cọng rau, ít gia vị hay bất kỳ cái gì
có thể bỏ vào miệng. Chỉ hai lần nghe tiếng mở cửa lúc mang cơm, một tên
tù bếp lẻn nhanh vào đặt cái túi nilong có nắm cơm rồi nhanh chóng lẩn
mất. Tù bếp là bán tự giác, chân đó phải lo lót mới có được, nên tù bếp
tránh giao tiếp với tù giam khu trong vì nếu bị phát hiện đưa một điếu
thuốc, một cái kẹo, cọng rau sẽ bị kỷ luật.
Hắn ở trong khu kiên giam hai, một mình một căn buồng giam rộng mênh
mông. Đêm nằm nhìn dãy sàn trống trơn cảm giác lạnh người. Ngày hắn trèo
lên cửa sổ bám đu người ngồi trên đó để cố gắng nhìn qua bờ tường thấy
các tù nhân khác đi lại, nhưng tầm nhìn đã được người xây tường tính
toán cho nên chỉ thấy lớt phớt chỏm tóc của tù nhân hay cái mũ kepi xanh
của cán bộ. Ban ngày trại đi làm bên ngoài hết, nên người đi lại lâu
lắm mới có một cái chỏm tóc, cái mũ thấp thoáng, còn âm thanh hầu như là
không có ngoại trừ tiếng kẻng.
Những ngày đầu trong trại kiên giam, hắn nằm, ngồi nghĩ nhiều thứ,
nghĩ cách thoát ra khu này về với bạn tù trong đội, nghĩ cách kiếm được
mẩu thuốc, một ít gia vị , một cọng rau... đêm nằm thao thức vì đói và
thèm một mẩu mỳ tôm ngâm nước lã lạnh đến lúc nở bung ra để cho hai ngón
tay vào gắp, hắn sẽ đưa sợi mỳ lên cao và cho nó chạy vào cuống họng từ
từ.
Khoảng một tháng sau thì hắn không thèm khát những thứ thuộc về ăn
uống đấy nữa, hắn đã trở thành một người thoát khỏi những ham muốn ăn
uống, kể cả giấc mơ cũng không có những thứ đó. Hắn chỉ ước nhìn thấy ai
đó, nói với họ dăm câu để biết mình còn là người, ước nhặt được mẩu
báo, hay giấy ghi bất kỳ nội dung gì đó để đọc tiết kiệm từng chữ một.
Giờ ước mơ là những thứ thuộc về tinh thần. Nhưng cũng không có nốt,
ngoại trừ ngày hai lần cánh cổng khu kiên giam hai mở toang để tên tù
bếp đi như chạy đến cửa buồng giam hắn vất vào túi nilong đựng nắm cơm
rồi nhanh chân biết mất.
Ngày cũng dài và đêm cũng dài hơn. Ngày thì mong đêm đến để ngủ,
nhưng khi đêm đến lại chẳng ngủ được thì trằn trọc mong ngày. Cứ mong
loanh quanh như vậy. Một hôm hắn chợt thấy có hai con chim sẻ bay xuống
khu sân trước mặt kiếm mồi, mắt hắn bừng sáng nhìn lũ chim. Rồi hắn
tưởng tượng rằng con chim nhỏ bé kia đã có lần bay qua mái ngói nhà hắn,
cái bàn chân nhỏ xíu của con chim kìa, cái móng nhỏ tí tí ấy đã đậu lại
trên sân thượng nhà hắn và có khi mổ đỗ xanh mà mẹ hắn phơi để dành
ngày Tết gói bánh chưng. Đến bữa hôm ấy hắn dành lại một ngón tay cái
cơm để ném ra sân, mong lũ chim có cái mà còn tìm đến để hắn ngắm nhìn.
Mấy con chim sẻ quê ăn thóc quen, mới đầu lạ chúng rỉa hạt cơm được hai
ngày thì chúng chán chẳng quay lại nữa.
Buồn lại hoàn buồn.
Một đêm bỗng hắn nghe thấy tiếng động cuối phòng giam, hắn hé mắt từ
từ , nghiêng đầu rất chậm để nhìn về hướng đó. Ồ thì ra chuột. Không
phải một con mà là hai con, chúng đã rúc rích chạy. Kỳ lạ ở nơi này có
gì ăn mà chúng ở đây. Nhưng dù phán đoán thế nào thì bọn chuột là có
thật, có khi là một đôi anh ả mới bén duyên định về đây xây tổ ấm
chăng.?
Hôm ấy hắn dành một nửa nắm cơm cho chuột, có bớt đi như thế cũng chả
ăn thua gì vì dạ dày hắn chắc đã teo lắm rồi, còn cơ thể thì cần nhiều
chứ thêm nửa nắm cơm cũng không có thêm chất là bao. Hắn quyết để nửa
nắm cơm cho bọn chuột ăn. Khi rắc cơm ra và trùm chăn quan sát, hắn nhận
ra là có đến bốn con chuột chứ không phải hai. À thì ra chắc mùa gặt đã
đến, chúng chạy nạn ngoài đồng kéo vào đây tá túc theo ngóc ngách nào
đó.
Ban ngày bọn chuột đi đâu không biết, nhưng cứ đến quãng 11 giờ đêm
đến 1 giờ sáng là chúng nháo nhác chạy đi, chạy lại, rúc rích đầy vẻ
khẩn trương. Lúc đầu chúng còn sợ nên chạy ra ăn cơm rất rón rén, cảnh
giác. Sau thì chúng bạo dạn ăn không biết e ngại nữa, chúng ăn nhoáng
cái hết mấy hạt cơm rồi lại dáo dác chạy đi chạy lại rất khẩn trương.
Hắn quan sát mãi mà không hiểu bọn chuột làm gì vào tầm thời gian ấy,
nhìn bộ dạng chả phải là đi kiếm ăn. À chắc là giờ chúng hẹn hò cưa cẩm
nhau như con người vậy. Nếu lúc tối đến những thanh niên nam nữ hẹn hò
nhau ríu rít, tậm sự thì bọn chuột cũng vậy, có chăng là khác giờ thôi.
Thế rồi gần sáng một hôm, lúc hắn ngủ thiếp đi bỗng giật mình đau
nhói ở ngón tay cái, mở mắt thấy máu và vết răng chuột cắn, nhìn lại
thấy một con chuột đang chạy hối hả về góc nhà vệ sinh. Vết căn sưng
tấy, đau nhói khiến hắn phát sốt. May là hai hôm thì hết sốt và vết
thương không nhiễm trùng, nhưng vẫn tấy nhức. Điên tiết đêm đến hắn cậy
hòn gạch ở bậc nhà vệ sinh đập làm hai, cầm nửa viên treo lên sàn trên
sau khi rắc cơm như mọi lần.
Bọn chuột chạy ra ăn cơm, hắn nhằm cái con chuột mà hắn ngứa mắt
nhất, vì thái độ nhâng nháo, và vì mọi nghi ngờ của hắn đều đổ cho con
chuột ấy là thủ phạm cắn hắn. Hòn gạch ném chính xác làm con chuột lăn
quay dãy vài cái rồi xuôi lơ, máu mồm ộc ra sàn. Bọn chuột còn lại chạy
biến mất, máu con chuột lan ra thấm vào những hạt cơm cạnh nó.
Hắn ngồi trên sàn và nhìn con chuột chết còng queo phía dưới, lúc
trước nó còn là một sinh vật nhanh nhẹn, đầy sức sống, linh hoạt và tinh
ranh. Thế mà chỉ khoảnh khắc tất cả mọi thứ ấy đã vĩnh viễn biến mất
chỉ còn lại một đống xấu xí,ghê tởm. Hắn cứ nhìn còn chuột dù đến lúc
chả nghĩ gì nữa hắn vẫn nhìn, đơn giản vì lâu hắn không nhìn được cái gì
đáng chú ý, cho nên xác một con chuột chết là thứ rất đáng nhìn sau bao
nhiêu ngày đơn điệu với âm thanh và cảnh vật ở đây.
Bất ngờ hai con chuột mò ra, hắn nghĩ chúng mò ra ăn nốt những hạt
cơm vương vãi. Nhưng không, hắn mở to mắt nhìn kinh ngạc. Một con chuột
cắn cổ con chuột chết lôi đi, một con ủn đằng sau con chuột chết đẩy đi.
Chúng tha xác con chết đi đâu? Hắn căng óc ra phán đoán mà không hiểu.
Ngày bé hắn đọc truyện thấy chuột ăn cắp trứng, một con ôm một con cắn
đuôi kéo, thấy không tin. Giờ nhìn cảnh đưa xác đồng loại đi thế này hắn
mới tin là chuyện ăn cắp trứng của chuột là có thật. Loay hoay một hồi
hai con chuột sống cũng đưa được con chuột đã chết qua cái lỗ ở góc nhà
vệ sinh ra ngoài.
Hắn thẫn thờ, không tin những gì mình nhìn thấy là có thật, hắn không
thể nào hình dung bọn chuột bất chấp nguy hiểm để đến mang xác đồng đội
đi. Chúng mang đi như thế để làm gì, chắc không phải là làm món ăn. Thế
nhưng chúng mang đi làm gì? Chả lẽ chúng chấp nhập nguy hiểm quay lại
để mang xác đồng bọn đi về ổ chăng? Chúng không nỡ bỏ xác đồng đội của
chúng chơ vơ lại giữa sàn nhà trống trải ấy chăng. Nếu quả thật chúng
mang xác con chuột đã chết đi vì chúng không nỡ để xác đồng loại phơi
thây như vậy... thì... hắn rùng mình sợ hãi.
Hắn múc nước dội sàn và lấy cái cái áo cũ làm giẻ lau sạch chỗ máu
chuột, đến đêm hắn để cho lũ chuột nguyên một nắm cơm, hắn ước có que
hương để thắp tạ lỗi cho con chuột bị hắn ném chết. Đêm hôm đó lũ chuột
không ra ăn cơm, mấy ngày sau cũng thế. Lũ chuột bỏ đi và hắn lại nằm
một mình nhìn tường, nhìn trần nhà giam.
Những tháng ngày ở trong khu kiên giam hai ở trại giam đó khiến hắn
cười nhạt với cái xà lim của trại giam B14 sau này. So với khu kiên giam
ấy thì B14 là một khách sạn 4 sao với cái nhà trọ bình dân. Bởi thế hắn
có thể bình thản như vậy, không phải do bản lĩnh gì mà chẳng qua vì hắn
trước đó đã ở những nơi tồi tệ hơn mà thôi.
Nhưng những gì để lại sau thời gian ở khu kiên giam 2 ấy, không chỉ
là thói quen chịu đựng được khổ cực về vất chất, tinh thần. Mà ấn tượng
lâu nhất với hắn là hình ảnh những con chuột (một loài vật được ví về sự
hèn nhát, dút dát) đã không bỏ rơi đồng loại của mình.
Bài học thì đơn giản, nhưng nhìn thấy nó trong thực tế thì lại là một
câu chuyện khác. Nhất là đạo lý xảy ra không phải với con người trên
trang sách, trong thước phim. Mà đạo lý được diễn giải với hành động
một loại vật hèn hạ, nhút nhát, bị khinh bỉ là những con chuột trong
buồng kiên giam 2.
(Viết để nhớ đến những người anh em, bạn bè đang ở trong ngục tù, nhân ngày nhân quyền quốc tế sắp đến)