Vụ công điện số 9159 cấm treo cờ Phật giáo và sự trở mặt của các sĩ quan thân tín.
Trong quyển hồi ký “Dòng họ Ngô Đình”, xuất bản năm 2003 taị
Californie, tác giả Nguyễn Văn Minh, nguyên bí thơ (1956-1963) của cố
Ngô Đình Cẩn, ghi nơi trang 164-165: Lối 10 hôm sau vụ nổ lựu đạn giết 7
em bé và một số Phật tử tại đài phát thanh Huế nhân ngày lễ Phật Đản
1963, Dương Văn Hiếu, trưởng đoàn Công tác đặc biệt Miền Trung, vào Dinh
để phúc trình với TT Diệm, ông Diệm nói với Hiếu như sau về vụ treo cờ
Phật giáo: “Sau đó tôi mới bảo Quách Tòng Đức gởi công văn nhắc các
Tỉnh, chứ tôi có cấm chi mô! Không hiểu taị răng hắn để tới ngày chót
mới gởi công điện. Khi xảy chuyện, tôi kêu vô hỏi, hắn xin thôi. Công
chuyện đổ bể như ri rồi, xin thôi thì ích chi?”. Nguyễn Văn Minh còn viết thêm ý kiến của Tôn Thất Đính: “Ông
Đức đã gởi đi một công điện mà không tham khảo ý kiến ông Cố vấn Ngô
Đình Nhu… Lẽ nào lại tự tiện đánh đi một công điện như vậy nếu không
được tình báo Mỹ tổ chức?”
Được hỏi nghĩ sao về những đoạn trích dẫn trên đây, ông QTĐ tỏ vẻ rất
ngạc nhiên. Ông xác quyết không bao giờ nhận được lệnh của ông Diệm
thảo và gởi cho các Tỉnh trưởng công điện số 9159 đề ngày 6.5.1963 do
ông Nguyễn Văn Minh nêu ra, với nội dung “chỉ thị cho các cơ quan phụng tự (nhà thờ, chùa chiền… chỉ treo cờ Quốc gia mà thôi”
(nguyên văn). Trước đó, việc treo cờ được giải quyết bởi hai nghị định
số 78 và 189 của Bộ Nội vụ (năm 1957 và 1958) và một sắc lệnh đầu năm
1962 của Phủ Tổng thống nhắc nhở quần chúng tôn trọng Quốc kỳ.
Ông Đức kể lại: Tháng tư 1963, sau một cuộc thị sát vào mùa lễ Phục
Sinh, TT Diệm có chỉ thị cho ông Đức gởi thông tư lưu ý các giới chức
Tỉnh về thể thức treo quốc kỳ VN trong các ngày lễ đạo, không phân biệt
tôn giáo nào: treo trước cổng giáo đường, ở chính giữa và phiá trên,
đúng kích thước, còn các cờ đạo và cờ đoàn thể thì ở vị trí thấp hơn.
Thông tư nhấn mạnh: phiá trong các giáo đường, chùa chiền và những nơi
thờ phượng, giáo kỳ được treo tự do, không giới hạn. Lệnh của Tổng thống
được phổ biến ngay ngày hôm sau.
Theo ông QTĐ, đầu tháng 5.1963, tại Huế, xảy ra một điều
đáng tiếc: Để lấy điểm trong lễ Ngân khánh 25 năm thụ phong giám mục
của Đức cha Ngô Đình Thục, nhà chức trách hành chánh địa phương đã cho
treo cờ Vatican “loạn xạ”, bất chấp thông tư nói trên. Một tuần
sau – ngày 8.5.1983 - vào lễ Phật Đản, các Phật tử cũng tự tiện treo
cờ Phật giáo như thế. Hôm sau, Tỉnh trưởng Thừa Thiên trở lại thi hành
thể thức treo cờ trong thông tư của Phủ Tổng thống nên gây sự phẫn nộ
của Phật tử vì họ cho rằng đây là một biện pháp bất công, kỳ thị. Tại
Miền Nam, theo ông Đức, với 4.800 chùa Phật, không có xảy ra vấn đề như ở
Huế.
Ông Đức còn nhớ rất rành mạch rằng, sau thảm kịch tại Đài Phát thanh
Huế chiều ngày 8.5.1963, Tổng thống có đòi ông vào Văn phòng để đưa cho
ông xem, với một gương mặt “mệt nhọc, buồn rầu và chán nản”, công điện ngày 6.5.1963 nói trên và hỏi “một cách sơ sài”
ai đã gởi đi chỉ thị ấy. Ông Đức trả lời không biết vì trong sổ công
văn gởi đi không có dấu vết của tài liệu vưà kể. Theo ông QTĐ, trong
hoàn cảnh chánh trị dồn dập sôi động lúc đó (Thích Quảng Đức tự thiêu,
Quách Thị Trang bị bắn chết tại chợ Bến Thành, lựu đạn nổ ở Huế, tướng
lãnh lập kiến nghị đòi cải tổ, việc kiểm soát chùa v.v…), TT Diệm rối
trí, không còn màng đến việc ra lệnh điều tra. Ông có lẽ dư biết việc
giả tạo công điện 9159 là một đòn phép mới của phe chống Chánh phủ (
Phật giáo Ấn quang? Tình báo Hoa kỳ? Đảng phái đối lập? hay Cộng sản?).
Vậy việc ông Đức xin từ chức là một điều thất thiệt. Nghi “tình báo Mỹ tổ chức”ông Đức – như tướng Đính ỡm ờ xuyên tạc – là một chuyện tưởng tượng rẻ tiền.
Để tỏ thiện chí dàn xếp, Chánh phủ đồng ý cho hai Ủy ban
Liên bộ và Liên phái công bố một thông cáo chung ngày 16.6.1963 xác
định những điểm đã thỏa hiệp về việc treo cờ Phật giáo và Quốc kỳ, hưá
xét lại Dụ số 10 trước Quốc hội vào cuối 1963, tạm ngưng áp dụng Nghị
định của Phủ Tổng thống số 116/TTP/TTK ngày 23.9.1960 ấn định thể thức
mua bán bất động sản và đất đai của Phật giáo, hứa sẽ trừng trị nhân
viên có lỗi và bồi thường các gia đình nạn nhân. Tuy nhiên, mọi việc đã
quá trễ đối với Hoa kỳ và Bắc Việt.
Trong hồi ký “Ngô Đình Diệm, Nỗ lực hoà bình dang dở”, (nxb
Xuân Thu Californie 1989), nơi trang 189-190, Nguyễn Văn Châu, nguyên
giám đốc Nha Chiến tranh Tâm lý Quân đội VNCH, trở thành đối lập với
Chánh phủ trước cuộc binh biến 1.11.1963, có ghi lại: Sau 1975, một cựu
đại uý Hoa kỳ tên James Scott, liên hệ với CIA và từng làm cố vấn cho
Tiểu đoàn 1/3 thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh, thú nhận trong một lá thơ đăng
trên một tuần báo Mỹ rằng chính y đã gài một trái bom nổ chậm chiều
8.5.1963 taị Huế. Sự kiện này cũng được Trần Kim Tuyến, dưới bút hiệu
Lương khải Minh, ghi lại trong hồi ký Làm thế nào giết một Tổng thống?
(tập 2, trang 366-370). Theo trung tướng Trần Thiện Khiêm xác nhận với
Marguerite Higgins, tác giả quyển sách Vietnam, Our nightmare, chương
VI, Nguyễn Khánh (nắm quyền sau cuộc chỉnh lý 30.1.1964) đã hy sinh
thiếu tá Đặng Sỹ, phó Tỉnh trưởng Nội an Thừa Thiên, để Thích Trí Quang
trì hoãn chống đối. Toà án Mặt trận xữ Sỹ khổ sai chung thân.
Tình trạng giữa TT Diệm và Mỹ căng thẳng kể từ muà hè 1962, nổ lớn
taị Huế với vụ Phật giáo 8.5.1963. Qua tháng 7, tin đồn đảo chánh lan
rộng. Ngày 21.8.1963, đại sứ Lodge trình ủy nhiệm thơ và bắt đầu móc nối
với tướng lãnh. Sau ngày Lực Lượng Đặc Biệt của đại tá Lê Quang Tung
lục soát chùa chiền, các tướng tin cẩn của TT Diệm đều đổi lòng, theo
phe phản loạn, trừ ông Cao Văn Viên trước sau như một. Ông Đức cảm động
khi được biết đại tướng Viên (hiện ở Hoa Thịnh Đốn) đã xác nhận với
người viết rằng sau ngày 30.1.1964 Nguyễn Khánh chỉnh lý ê-kíp Dương Văn
Minh, Nguyễn văn Nhung, kẻ giết hai ông Diệm-Nhu, – từ đại úy thăng
thiếu tá – bị An ninh Quân đội bắt vào giao cho Lực lượng Nhảy Dù của Tư
lệnh Cao Văn Viên canh giữ. Nhung “đã tự treo cổ bằng một sợi giây giày trong khám đường”, theo lời tướng Viên.
Được hỏi: trong các tướng thường vô ra Dinh Độc lập, ai là người được sủng ái nhứt, ông QTĐ đáp không do dự: “Tôn Thất Đính và Trần Thiện Khiêm, mà Tổng thống xem như người nhà!”
Điều này không ngăn Đính và Khiêm đóng vai trò chính yếu trong cuộc đảo
chánh 1.11.1963, hệ trọng hơn cả Dương Văn Minh được chọn làm bình
phong. Chính Trần Văn Đôn, với tư cách người móc nối, đã tiết lộ trong
hồi ký “Việt Nam Nhân Chứng”, rằng Đôn có dò xét tâm ý của Đính và đến gặp Khiêm bốn lần, lần đầu vào tháng 9.1963, và Khiêm có cho Đôn biết “ông ta cũng có một kế hoạch riêng do Mỹ chủ trương”. Đôn viết (nguyên văn): “Tôi khuyên ông ta không nên bàn với Mỹ một việc quan trọng như vậy, nên bỏ kế hoạch ấy đi!”(trang
193). Trong những biến cố quân sự liên tiếp làm hỗn loạn Miền Nam từ
1.11.1963 cho đến ngày Tổng thống Thiệu cầm quyền, tướng Trần Thiện
Khiêm đứng sau màn giựt giây chiếu theo lời xác nhận của một số nhân
chứng hàng đầu khả tin. Tới nay, ông Khiêm không đính chánh mà cũng
không tiết lộ gì cả. Liệu tướng Khiêm sẽ ra đi như tướng Thiệu, mang
xuống tuyền đài những bí ẩn đau thương của Đệ nhị Cộng hoà Miền Nam ?
Theo QTĐ, Dương Văn Minh không sâu sắc về chánh trị tuy thời cuộc đưa
lên ghế Quốc trưởng hai lần: sau 1.11.1963 (nhờ Mỹ giúp) và tháng tư
1975 (với sự đồng ý của Bắc Việt). Lần đầu, Minh tại chức ba tháng; lần
sau, được 40 giờ, rồi đầu hàng địch vô điều kiện. Với tư cách Bộ trưởng
Nội vụ, tác giả bài này được chỉ thị đích thân điều tra mật về trường
hợp tẩu tán kho vàng Bảy Viễn chứa trong một thùng kẽm lớn, theo phúc
trình của đại tá Nguyễn Văn Y, Tỉnh trưởng Chợ lớn, phụ tá hành quân cho
ông Minh trong cuộc tảo thanh Rừng Sát. Người viết có mời tướng Minh
đến giải thích. Vì lý do chánh trị, hồ sơ tạm xếp. Bộ Tư lệnh Hành Quân
bị giải tán, tướng Minh được cử làm Cố vấn Quân sự Phủ Tổng thống, một
chức vụ tượng trưng. Từ đó, ông cảm thấy không yên tâm với “chiếc gươm
Damoclès treo trên đầu”, ông hận chế độ – đặc biệt cố vấn Nhu - vô ơn
sau khi ông đã chống Nguyễn Văn Hinh, ủng hộ Thủ tướng Diệm, giúp dẹp
Bình Xuyên và bắt nạp Ba Cụt. Một lý do khác gây nghi ngờ đối với tướng
Minh là cơ quan tình báo quốc gia bắt đủ bằng chứng về mối liên hệ thầm
lén giữa ông Minh và người em CS là thiếu tá Dương Văn Nhựt, bí danh
Mười Ty. Một người em khác của tướng Minh là Trung tá QĐVNCH Dương Văn
Sơn cũng đã chứa chấp vợ chồng Nhựt và đóng vai trò liên lạc ở trong và
ngoài xứ. Cục trưởng Trung ương Tình báo và Tổng giám đốc Cảnh sát Công
an Nguyễn Văn Y, hiện ở Virginia, đã xác nhận với người viết có đích
thân trình hồ sơ Dương Văn Minh cho TT Diệm xem. Tổng thống liền ra lệnh
hủy bỏ hồ sơ nầy “trước mắt ông” vì không muốn cho Hoa kỳ biết, “xấu hổ.” (sic).
Hoa kỳ và Cabot Lodge đã khai thác mối thù riêng của tướng Minh đối
với cá nhân hai ông Diệm, Nhu để lật đổ Đệ nhứt Cộng hoà và thay ngựa
giữa giòng. Hoa kỳ cũng dư biết Minh có liên hệ với Bắc Việt nên áp lực
Trần Văn Hương trao quyền gấp lại cho D V Minh – trái với Hiến pháp –
hầu tạo lý do cho Mỹ chuồn sớm khỏi VN. Nguyên đại tá Nguyễn Linh Chiêu,
hiện ở Huntington Beach, Californie, kể lại với tác giả bài này: Năm
1983, ông có gặp tướng Minh tại Paris, hỏi vì sao thủ tướng Vũ Văn Mẫu
cuối tháng 4.1975 lại hấp tấp ra thông cáo buộc quân Mỹ phải rút trong
vòng 24 giờ? Tướng Minh đáp – trước mặt nhân chứng Trần Văn Đôn – đã
làm “theo lời yêu cầu của đại sứ Mỹ Graham Martin.” Các sự
kiện trên đây cho thấy tướng Dương Văn Minh chỉ là một con rối trong tay
Hoa kỳ, Pháp và Bắc Việt. Minh đã giúp Hoa kỳ tràn vào VN bằng cách
tuân lệnh đảo chánh ông Diệm. Mười hai năm sau, cũng chính Minh giúp
Quân đội Mỹ tháo chạy. Nguyên TT Trần Văn Hương đã thẳng thắn phát biểu:
“Minh không phải là con người thích hợp với cảnh dầu sôi lửa bỏng của Đất nước!”
Năm 1988, đại tướng Minh được Hoa kỳ cho phép rời Paris qua Pasadena,
Californie, sống với người con gái. Phải chăng đây là một cách trả ơn?
Ông Minh quá vãng ngày 6.8.2001, thọ 86 tuổi. Trước đó, Võ Văn Kiệt cũng
có đến thăm ông taị Pháp, theo Lý Quý Chung tiết lộ trong quyển “Hồi ký Không Tên” vưà xuất bản taị Saigon. Với vài người thân tín, tướng Minh nói ông không tiếc hối đã đóng vai trò của một Pétain Việt Nam!
Nguyễn Khánh là một sĩ quan thân tín có công “cứu Chúa”
trong vụ binh biến 11.11.1960 khi giữ chức Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham
mưu. Ông nuôi cao vọng thay thế Tổng tham mưu trưởng Lê Văn Tỵ. Sau khi
thăng Thiếu tướng tạm thời taị mặt trận, ông được đưa lên Cao nguyên hẻo
lánh để trấn Quân khu 2 và Vùng 2 chiến thuật. Ông Khánh sanh bất mãn,
vì thế tuyên bố trên đài phát thanh lúc bốn giờ sáng ngày 2.11.1963 ủng
hộ phe đảo chánh. Theo tướng Khánh kể lại với người viết: đêm 1.11.1963,
ông Diệm và ông Nhu có điện thoại từ Chợ Lớn lên Pleiku cố thuyết phục
ông Khánh cầm quân về Sàigòn giải cứu nhưng ông Khánh trả lời “Quá trễ và ở quá xa.”. Câu hỏi đặt ra: Nếu tướng Khánh nhận về “cứu giá”,
nếu TT Diệm trì hưỡn xuất hiện sáng 2.11.1963 và nếu sự cứu giá thành
công, thì thời cuộc liệu thay đổi ra sao? Mọi việc tùy thuộc biết bao
nhiêu chữ “nếu”! Sau hết, với người viết, tướng Khánh còn than phiền TT
Diệm không giữ lời hứa (viết tay) trao quyền lại cho Quân đội sau cuộc
binh biến 11.11.1960. Đây là một sự kiện khác mà tướng Khánh hẳn không
quên. Trong một buổi lễ long trọng truy điệu cố TT Ngô Đình Diệm taị thủ
phủ Little Sàigòn, Californie, tướng Nguyễn Khánh không tiếc lời ca
tụng TT Diệm như một anh hùng dân tộc mà ông ngưỡng mộ và quyết chí noi
gương. TT Diệm nể trọng đại tướng Lê Văn Tỵ, người duy nhứt trong Quân
đội được kêu bằng Ngài. Phiá dân sự, cách xưng hô này chỉ áp
dụng đối với Phó TT Nguyễn Ngọc Thơ và Bộ trưởng Ngoại giao Vũ Văn Mẫu,
nhân vật cạo đầu năm 1963 để phản đối trong vụ Phật giáo.
Tướng nào giỏi đóng tuồng và chuyên “trở cờ”? Tuy không thân
cận với giới tướng lãnh, ông Đức có thể trả lời theo một nhận định
chung: Trần Văn Đôn (em út của Tây con Nguyễn Văn Hinh và là người từng
công khai đốt lon sĩ quan Pháp để tỏ lòng trung thành với TT Diệm) và
Tôn Thất Đính (con cưng của chế độ trở giáo đâm sau lưng chế độ. Một
Brutus hay một Juda? ). Ai thâm độc nhứt? Đỗ Mậu. Ông Mậu – một cột trụ
Cần Lao – thú nhận đã mọp lạy trước ông Đính (cũng là Cần lao gộc) để
van xin Đính theo quân nổi loạn. “Đại tá muôn năm” Đỗ Mậu hận vì TT Diệm
cho rằng ông không đủ văn hoá để tiến cao hơn. Người viết có dịp hỏi
nguyên Thủ tướng Nguyễn Khánh nghĩ sao khi chọn Mậu lãnh đạo Bộ Văn hoá
không thích hợp chút nào với trình độ của y thì tướng Khánh nheo mắt
cười, trả lời: Mậu tự ti mặc cảm nhưng đầy cao vọng và được một số Phật
tử ủng hộ lúc đó. Việc bổ nhiệm này khuyến khích Mậu cộng tác sốt sắng
và đồng thời biến Mậu thành trò cười của quần chúng! Đây là một “đòn
chánh trị” quen thuộc của Nguyễn Khánh, kịch sĩ từng đả đảo Hiến chương
Vũng Tàu do chính ông cho thảo ra. Một đòn khác của tướng Khánh: móc nối
với Huỳnh Tấn Phát, lãnh tụ Mặt trận Giải phóng Miền Nam, với chủ đích –
theo lời tuyên bố của Khánh – kéo Phát về phiá Quốc gia. Điều này bị
Nguyễn Thị Bình phủ nhận hoàn toàn trong hồi ký Chung Một Bóng Cờ,
(nxb Chính trị Quốc gia, Hànội 1993). Chẳng những thế, trang 453-454
của hồi ký còn tiết lộ Nguyễn Khánh đã vận động Hoa kỳ cúp viện trợ và
bỏ rơi TT Thiệu, Khánh công khai đi đêm với Mặt trận trong giai đoạn
chót của Hiệp định Paris.
“TT Diệm có thích được nịnh hót hay không?” Ý kiến của Ông
Đức: Tại Bắc Việt, Cộng sản đã thần tượng hoá Hồ Chí Minh. Trong Nam,
cũng có khuynh hướng ấy đối với ông Diệm, dưới nhiều hình thức, đặc biệt
trong Phong trào Cách mạng Quốc gia với số đoàn viên tăng từ 10,000 năm
1955 lên đến 2 triệu năm 1963, tổ chức đến tận xã, phường. Bộ trưởng
Thông tin Trần Chánh Thành bỏ hàng ngũ kháng chiến về cộng tác với ông
Diệm từ lúc đầu như Trần Hữu Phương, Trần Lê Quang… Ông có công xây dựng
Phong trào CMQG, tổ chức Chiến dịch tố cộng và đề xướng “Suy tôn Ngô Tổng thống”. Bất
thuận với Trần Kim Tuyến, Thành rời Nội các cuối năm 1959. Ba bộ trưởng
khác ra đi cùng một lúc vì, với ông Thành, lập hồ sơ truy tố một số cán
bộ Cần lao dân sự và quân sự lộng quyền: Trần Trung Dung (Quốc phòng),
Nguyễn Văn Sĩ (Tư pháp) và người viết (Nội vụ). Bộ Thông tin bị đổi
thành Nha Tổng Giám đốc Thông tin do bác sĩ (Cần lao) Trần Văn Thọ phụ
trách. Ngày 30.4.1975, ông Thành (Nghị sĩ và Ngoại trưởng thời Nguyễn
Văn Thiệu) tự tử bằng thuốc độc tại nhà để tránh sa vào tay CS còn bs
Tuyến thì được nhà báo điệp viên Việt cộng nằm vùng Phạm Xuân Ẩn lấy xe
chở đến một địa điểm dùng trực thăng Mỹ thoát khỏi VN. Tuyến định cư
tại Anh quốc nhờ bà Tuyến làm việc cho Tòa Đại sứ Anh ở Sàigon. Tuyến
làm chủ một nhà trọ bed and breakfast gần Cambridge và qua đời cách đây
vài năm, sau khi phát hành với Cao Vĩ Hoàng quyển hồi ký “Làm thế nào giết một Tổng thống?”
Theo ông QTD, TT Diệm cởi mở, bình dân trong những năm đầu chấp chánh
nhưng về sau, trở nên khó tánh và khép kín hơn. Ảnh hưởng của quyền
lực? hoàn cảnh ? giới cận thần a dua? Qua ba giai đọan Quốc Hội Lập
Hiến, Quốc Hội Lập Pháp kỳ 1 và Quốc Hội Lập Pháp kỳ 2, nền Đệ nhứt Cộng
hoà đi lần vào bế tắc. Trong gia đình, ông bà Trần Văn Chương, nhạc gia
của ông Nhu, – chồng, đại sứ VNCH taị Hoa Thịnh Đốn và vợ, quan sát
viên tại Liên Hiệp Quốc – lợi dụng chức vụ để phản tuyên truyền và đả
kích kịch liệt Chánh phủ Sàigòn và luôn cả vợ chồng ông Nhu. Bác sĩ Trần
Văn Đỗ, chú vợ của cố vấn Nhu, và luật sư Nguyễn Hữu Châu, nguyên bộ
trưởng Phủ Tổng thống kiêm Bộ trưởng Nội vụ, anh em bạn cột chèo với
ông Nhu, cũng không còn ủng hộ ông Diệm. Ls Châu đào thoát qua Paris
ngang con đường Nam Vang nhờ sự giúp đỡ của bạn học cũ là Quốc vương
Sihanouk. Ông đã trình luận án Thạc sĩ luật chỉ trích chương trình viện
trợ Hoa kỳ ở VN và sau đó, dạy luật taị Đại học Paris. Ls Châu như khoa
học gia Bửu Hội, năm 1972, cũng ngả theo ủng hộ Mặt trận Giải phóng
Miền Nam. Trần Văn Đôn- người chủ trương đảo chánh – nhìn nhận một cách
thương hại: Tội nghiệp, mọi người đều bỏ TT Diệm!
Ông QTĐ tỏ ra dè dặt đối với dư luận cho rằng TT Diệm kỳ thị Phật
giáo. Ông cho biết TT Diệm thường tiếp xúc với các vị tu hành thuộc mọi
tôn giáo, đặc biệt Phật giáo; không bỏ qua dịp viếng thăm một số chùa
như chùa Sư Nữ của Sư bà Diệu Huệ (mẹ giáo sư Bữu Hội) ở Phú Lâm, chùa
Diệu Đế ở Huế v.v… Chính ông Đức đã nhiều lần chuyển đến tay ông Mai Thọ
Truyền, chủ chùa Xá lợi và Hội trưởng Hội Phật giáo Nam Việt những số
tiền giúp đỡ. Một chuyện mà ít người biết là TT Diệm đã hiến cho Đức
Đạt Lai Lạt Ma trọn số tiền 15.000 mỹ kim, giải thưởng Leadership Magsaysay tặng cho Tổng thống. Vì lý do chánh trị, quyết định này không được công bố.
Ủy ban tôn giáo Liên Hiệp Quốc được Chánh phủ Saigòn mời
đến điều tra năm 1963 cũng đã phúc trình - sau ngày hai ông Diệm, Nhu
bị giết – rằng Đệ nhứt Cộng hoà không kỳ thị tôn giáo. Mặt khác, TT Diệm
đã từng thẳng thắn bác bỏ những yêu sách quá đáng của các giáo phẩm di
cư, bởi thế nên có sự bất mãn ngấm ngầm. Hai Giám mục Phát Diệm, Bùi Chu
Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc Chi chống đối ra mặt.
Cho đến ngày TT Diệm qua đời, phần đông các người phục vụ sát cạnh
bên Tổng thống hàng ngày đều thuộc thành phần Phật giáo: Đổng lý (QTĐ),
Tổng thơ ký Nguyễn Thành Cung, Chánh văn phòng Võ Văn Hải, bí thơ Trần
Sử, nội dịch Tôn Thất Thiết, cận vệ Nguyễn Bằng…..
Vấn đề thủ tiêu các người đối lập và việc tiếp xúc của ông Nhu với đối phương Cộng sản.
Sau chánh biến 1.11.1963, Hội đồng Quân nhân Cách Mạng tố cáo chánh
quyền Diệm đã thủ tiêu một số ngưới đối lập như Nguyễn Bảo Toàn, Tạ Chí
Diệp, Vũ Tam Anh, Hồ Hán Sơn, v.v… QTĐ tuyên bố không biết gì về những
chuyện này thuộc thẩm quyền các cơ quan công an, tình báo. Tuy nhiên,
ông tin chắc rằng ông Diệm không bao giờ đích thân chủ trương như vậy vì
Tổng thống là một tín đồ Công giáo thuần thành, phân biệt tội phước,
không khát máu như Cộng sản mà ông tích cực chống đối. Có thể một số
nhân viên an ninh cuồng tín đã hành động để lấy điểm (excès de zèle)
hay giải thích sai lầm chỉ thị cấp trên. Một bằng chứng cụ thể là TT
Diệm chỉ ra lệnh giam chớ không cho xử tử Hà Minh Trí, một cán bộ Cao
Đài, mưu sát hụt ông tại Ban Mê Thuột và gây thương tích cho Bộ trưởng
Đỗ Văn Công. Hà Minh Trí được Hội đồng Cách Mạng trả tự do khi họ đã
giết TT Diệm. Câu hỏi nêu ra là cuối cùng, TT Diệm có hay biết các vụ
thanh toán đối lập hay không và phản ứng thế nào? Dù sao, lịch sử vẫn
đặt vấn đề trách nhiệm tinh thần đối với ông.
Trong giai đoạn chót của chế độ, có tin đồn trong quần chúng và báo
giới Mỹ rằng cố vấn Ngô Đình Nhu đi đêm với CS kháng chiến để tìm ra
giải pháp giữa Nam, Bắc. Chính ông Nhu có đề cập đến chuyện này trong
vài phiên nhóm với tướng lãnh tại Bộ Quốc phòng và ngày 23.7.1963 taị
suối Lồ Ồ khi nóí chuyện với các cán bộ xây dựng Ấp Chiến lược khoá 13.
Một nguồn tin khác cho biết ông Nhu xử dụng trung gian cuả bốn đại sứ
Roger Lalouette (Pháp), d’Orlandi (Ý), Goburdhun (Ấn dộ) và Manelli (Ba
Lan), (hai ông sau là thành viên của Ủy ban Quốc tế kiểm soát đình
chiến) cũng như Tổng lãnh sự Pháp ở Bắc Việt Jacques de Buzon để
liên lạc với Hànội.
Ông QTĐ nói có nghe dư luận này nhưng không biết rõ chi tiết. Ông
cũng có nghe xầm xì rằng ông Nhu đã gặp một đại diện Văn phòng Chính
trị CS (Phạm Hùng?) trong lần đi săn tại Quận Tánh Linh, Bình Tuy. Ông
Đức nghĩ đây chỉ là một đòn chiến thuật của ông Nhu để dằn mặt Hoa kỳ,
Tổng thống Diệm không bao giờ chấp nhận giải pháp điều đình với Hồ Chí
Minh. Hơn nữa, Hiến pháp VNCH có ghi rõ chủ trương của Miền Nam Việt Nam
chống chủ nghĩa vô thần. Ông Đức còn xác nhận: một Tết Nguyên Đán
trước 1963, một cành đào đỏ lộng lẫy được trưng bày nơi phòng khánh tiết
Dinh Độc lập với tấm thiệp in tặng của “Chủ tich Nhà nước Cộng hoà Xã hội Miền Bắc”.
Những ngày chót của Tổng Thống Diệm. Các cận thần cuối cùng.
42 năm trôi qua [2005], mọi công dân VN, ủng hộ hay chống đối ông
Diệm, đều cảm thấy nhục nhã khi đọc lại những lời thú nhận sống sượng
của tướng Trần Văn Đôn, đầu não trong chánh biến 1.11.1963 và tác giả
của quyển hồi ký “VN Nhân Chứng” (nxb Xuân Thu, Californie, 1989) về vai trò Hoa kỳ chỉ huy vụ lật đổ và sát hại một lãnh tụ đồng minh. Đôn viết: “Đúng 1 giờ 30 trưa, (trùm Xịa) Conein vào bộ Tổng Tham mưu, (nơi đặt văn phòng của Đôn) mang theo một máy truyền tin đặc biệt để liên lạc với Toà Đại sứ Mỹ và một bao tiền là ba triệu bạc VN” (trang 211). Đôn còn tuyên bố khi y thậm thọt gặp riêng Thái thú Cabot Lodge để thỉnh thị: “Chúng tôi (nhóm đảo chính) không bao giờ có tham vọng cá nhân, chỉ muốn cứu nước!” (trang 210).
Trong hồi ký VN Nhân Chứng, đọan chót, Trần Văn Đôn cho biết
ba triệu bạc -cái giá rẻ mạt để thay đổi một thế cờ! – đã chia cho
Dương Văn Minh, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính, Nguyễn Hữu Có, Đỗ Cao Trí,
Nguyễn Khánh , Trần Ngọc Tám và Lê Nguyên Khang.
Ông Đức tỏ ra ngán ngẩm khi được hỏi nghĩ gì về sự tự thú trên đây.
Theo ông, trong những ngày chót của một cuộc đời đấu tranh gian khổ, TT
Diệm là con người cô đơn nhứt trên thế gian: dân tộc bỏ rơi, đồng minh
phản bội, gia đình chia cách, kẻ thù cộng sản reo hò chiến thắng, sự
nghiệp chính trị ra tro, uất hận ngất trời vì tương lai mù mịt của Đất
nước, một quốc gia bị sức mạnh chèn ép. Với ông Nhu quỳ bên cạnh cầu
nguyện trong Nhà thờ Cha Tam Chợ Lớn sáng ngày 1.11.1963. không chắc TT
Diệm đồng một tâm tư với người em.
Ông Đức bùi ngùi nhắc lại: Tối 1.11.1963, khi tiếng súng nổ rền khắp
nơi, ông và gia đình rời khỏi nhà riêng ở số 8 đường Lê Văn Thạnh,
Sàigòn, ngủ đêm tại Chợ Lớn, không xa căn phố lầu của Mã Tuyên, nơi Tổng
thống và ông Nhu tạm ngụ. Sáng hôm sau 2 tháng 11, trở lại nhà thì được
hay Tổng thống có điện thoại tối hôm trước nhưng người giữ nhà trả lời
không biết ông Đức ở đâu. Vài giờ sau, ra-dô báo tin hai ông Diệm, Nhu
“tự tử”, điều mà Đức không tin chút nào. Đến nay, ông Đức vẫn ân hận vì
không được tiếp xúc lần chót với Tổng thống.
Hỏi: Trong Nội các, ai được Tổng thống Diệm tin cậy nhứt
những ngày, tháng cuối cùng? QTĐ đáp: Nguyễn Đình Thuần và Trương Công
Cừu. Thuần kiêm ba trọng trách: Bộ trưởng taị Phủ Tổng thống, Bộ trưởng
phụ tá Quốc phòng, và Bộ trưởng Đặc nhiệm Phối hợp An ninh. Cừu là Bộ
trưởng Đặc nhiệm Phối hợp Văn hoá Xã hội. Ngoài ra, còn có Ngô Trọng
Hiếu, Bộ trưởng Công dân vụ, từng là đại sứ VNCH ở Nam Vang, bị Chánh
phủ Cam bốt trục xuất vì giúp cho tướng Đap Chuon đảo chánh (hụt) Quốc
vương Sihanouk. Tên ông Hiếu nằm trong bản danh sách của Cabot Lodge ghi
các nhân vật cần thanh toán, theo hồi ký nêu trên của trung tá Nguyễn
Văn Châu.
Ông Đức không ngạc nhiên cho lắm khi được người viết cho biết một số
tài liệu giải mật taị Hoa kỳ tiết lộ Thuần là tay trong thân tín của
CIA, theo dõi để phúc trình từng phản ứng của hai anh em Diệm-Nhu. Thuần
từng được Mỹ chấm như một “Thủ tướng có triển vọng” nếu TT Diệm chịu sửa Hiến pháp để đặt thêm chức vụ này (đọc The Storm has many eyes, A personal narrative của Henri Cabot Lodge, NY 1973, trang 62 và Lodge in Vietnam, A Patriot abroad của Ann Blair, nxb Yale University Press, New Haven 1995, trang 92).
Một số nhân vật rất gần Dinh Độc lập cho biết Thuần dùng đủ mưu chước
để thu hút cảm tình của TT Diệm và từ đó, tìm cách ly gián ông Diệm và
ông Nhu trong giai đọan chót của chế độ. Ông QTĐ ngạc nhiên khi hay
chính Đệ nhị Phòng Pháp đã giúp Thuần trốn khỏi VN. Cố Ứng Thi, chủ của
Khách sạn Rex và bạn thân của Thuần, xác nhận với người viết điểm vừa
nói. Thuần hiện sống thong dong taị Paris.
Tác giả bài này thắc mắc: không lẽ một ngưởi tinh vi như ông Nhu mà
không nhận ra mặt trái của Nguyễn Đình Thuần? Ông Đức trả lời: Có thể
ông Nhu không mù quáng nhưng ở vào thế kẹt lúc đó, không còn ai liên lạc
để dò xét âm mưu đen tối của Hoa kỳ, ông Nhu phải “tương kế, tựu kế” xử
dụng Thuần. Ông Nhu cũng đã áp dụng chiến thuật này (kế hoạch chống đảo
chánh Bravo) để tìm cách chi phối nhóm tướng bị Mỹ mua chuộc.
Ông Đức cho biết thêm: Linh mục Cao Văn Luận cũng là một cố vấn thân
tín của Tổng thống được giao phó ra nước ngoài xin tài trợ về giáo dục,
tìm kiếm trí thức Việt đưa về nước và tổ chức Viện Đại học Huế mà ông là
Viện trưởng đầu tiên. Trong giai đoạn khủng hoảng Phật giáo, dư luận
cho rằng cha Luận đã trở mặt, ngả theo phe chống chánh quyền. Chẳng
những thế, ông còn viết hồi ký “Trong giòng lịch sử “ để nói xấu TT Diệm và đề cao Hồ Chí Minh. Tình đời đen bạc!
Ông QTĐ quả quyết không bao giờ gặp Vũ Ngọc Nhạ (mà CS tuyên bố phịa
trong quyển sách và bộ phim giả tưởng Ông Cố Vấn gài được vào Dinh Độc
Lập!) Trả lời về các cán bộ gốc Cộng sản cộng tác với chế độ, ông Đức
cho biết Kiều Công Cung – nguyên tư lệnh một sư đoàn Việt cộng – đã tỏ
ra xứng đáng đến cùng trong chức vụ Đặc ủy chiêu hồi. Phạm Ngọc Thảo –
mà Tổng Nha Công an có hồ sơ – được bổ nhiệm đại úy Bảo An, sau đó Tỉnh
trưởng Kiến Hoà và thanh tra dinh điển. Hai chuyên viên Mỹ về Giáo dục
và Dinh điền thường lui tới Dinh và ăn sáng với Tổng thống là giáo sư
Wesley Fishel thuộc Đại học Michigan và Ladejinsky mà Tổng thống quen từ
lúc bôn ba ở Hoa kỳ. Về sau, được hay hai chuyên viên này làm việc cho
CIA. Đặc biệt, Fishel đã ra mặt chống phá ông Diệm taị Hoa Thịnh Đốn
trước ngày đảo chánh.
Trần Văn Đôn ghi nơi trang 182 của hồi ký “Việt Nam Nhân Chứng”:
Trong một buổi học tập chính trị taị bộ Tổng Tham Mưu trước chính biến
1.11.1963, ông Nhu nói, sau khi nghe các tướng lãnh trình bày thỉnh
nguyện : “Mấy anh muốn cải tổ chánh phủ mà xin như vậy đâu có nhiều.
Muốn làm cách mạng thật sự, tôi tưởng các anh phải xin nhiều hơn. Ông
Diệm bị kẹt với một số Bộ trưởng thối nát bất tài. Trong lúc này Quân
đội phải nhận rõ vai trò của mình để cứu nước, nên đảo chánh một đêm bắt
mấy ông Bộ trưởng đó rồi hôm sau trao quyền lãnh đạo lại cho Tổng
thống. Nếu có vị tướng nào muốn đảo chánh thì quân đội phải chống lại,
phải bắt người đó mà treo cổ trên đường Công Lý.”
Đâu là sự thật? Nếu đúng, thì đây có phải là ván bài tố xả láng của
ông Nhu để dò xét và sập bẫy nhóm tướng tạo phản? Hay một nhìn nhận chua
chát chế độ đang tuột dốc thê thảm, đưa dân tộc vào một trận đại hồng
thủy? Tổng thống Ngô Đình Diệm có thể đã phạm một số sai lầm nguy hại
khi cầm quyền – điều này sẽ được sử sách phê phán công và tội – nhưng
không một ai – từ đồng minh Hoa kỳ cho đến Hồ Chí Minh – chối cãi rằng
ông là một lãnh tụ yêu nước, trong sạch, có khí phách và không làm dân
tộc VN hổ thẹn vì ông đã cố bảo vệ đến cùng thể diện và quyền uy quốc
gia. Không một gia đình Việt Nam nào mà lại hy sinh nặng như thế cho Đất
nước, mất một lần bốn người con ưu tú, một vì tay Cộng sản và ba vì tay
quốc gia. Ông Diệm ra đi, Hồ Chí Minh không còn đối thủ, Mỹ rảnh tay
Việt nam hoá chiến tranh, Miền Nam sụp đổ mau lẹ.
Hay tin TT Diệm bị sát hại, Mao Trạch Đông phản ứng bằng nhận xét: “Chính quyền Kennedy hạ ông Ngô Đình Diệm là một thất sách, một sai lầm rõ rệt!” Và Hồ Chí Minh tuyên bố: “Ông Diệm là một nhà yêu nước, theo lối của ông ấy!” Trong hồi ký The Real War, chương V, Richard Nixon viết: Tổng thống Pakistan Ayub Khan nói với tác giả vài ngày sau vụ đảo chánh 1.11.1963: “Việc
Tổng thống Diệm bị giết có ba ý nghĩa đối với nhiều người Á Đông: trở
thành bạn Hoa kỳ là một nguy hiểm, trung lập có giá hơn và đôi khi tốt
hơn là kẻ thù.” Riêng về De Gaulle thì ông nhận định: ‘Sau Diệm, không phải là một khoảng trống mà là một sự quá đầy!” De Gaulle muốn nói: Miền Nam lạm phát lãnh tụ, trở thành một giỏ cua và một hí trường tranh dành địa vị, ngôi thứ.
Đối với thế hệ lãnh đạo mai sau, sự thất bại của TT Diệm
– mà đồng minh Hoa kỳ lẫn kẻ thù Cộng sản đều xem như một mối đe dọa
cần triệt hạ – là một bài học quý báu về kinh nghiệm chống Đế quốc, về
Nhân tình thế thái và thân phận của một nước nhược tiểu. Học giả Denis
Warner từng cho ông biệt danh “The Last Confucian, Người hiền
triết Khổng giáo cuối cùng”. TT Diệm là một thầy tu lạc lõng giữa chính
trường gió tanh mưa máu, gánh trên vai thánh giá của Quê hương đau khổ.
Lịch sử trước sau gì cũng sẽ ban cho ông Công Lý.
Sau tháng 4.1975, hai ngôi mộ của TT Diệm và Cố vấn Nhu được cải táng
từ nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, Saigon, về quận Lái thiêu, tỉnh Bình
Dương. Mộ bia của TT Diệm có khắc chữ Huynh. Mộ bia của Cố vấn Nhu khắc
chữ Đệ. Hai nắm mồ khiêm nhường, quạnh hiu, thiếu người chăm sóc, kết
thúc một cuộc đời đấu tranh khắc nghiệt, đầy oan trái nhưng chắc chắn
không phải là một hy sinh vô bổ trên bàn thờ Tổ Quốc.
Kết luận
Ông bạn Quách Tòng Đức chấm dứt buổi nói chuyện thân tình bằng một
lời than chua xót: Dĩ vãng buồn nhiều hơn vui, phá hoại nhiều hơn xây
dựng, hận thù thay vì đoàn kết. Đến nay, Đất nước chưa thấy lối thoát,
những bài toán của Xứ sở chưa tìm ra đáp số. Ngày nào Cộng sản vẫn bám
víu vào quyền lực thì quốc nhục chậm tiến còn kéo dài. Thế cuộc xoay
vần. Lý thuyết chánh trị, chế độ, lãnh tụ,… rồi cũng phải trở về với cát
bụi. Vanitas vanitatum, omnia vanitas, Hư danh, tất cả đều là hư danh! Cuối cùng chỉ còn lại Dân tộc, Dân tộc trường tồn, Dân tộc bất diệt.
Lưu đày, dù trên mảnh đất dân chủ, chưa phải là Tự do. Người Việt tha
hương, vào tuổi gần đất xa trời, vừa đau buồn hướng về Đất Mẹ, vừa thao
thức tự vấn như Thôi Hiệu trong bài thơ Đường Hoàng Hạc Lâu:
Chiều xuống, Quê nhà đâu đó tá?
Bên sông khói toả, não lòng ai.
(Chi Điền dịch)
© Lâm Lễ Trinh
Ngày Quốc khánh Hoa kỳ 2005
Thuỷ Hoa Trang
Californie