Hãy cứ tưởng tượng nếu nhạc sĩ tài hoa Phạm Đình Chương sống dậy
thưởng thức nhạc phẩm “Nửa Hồn Thương Đau” hay “Giết Người Trong Mộng”
của mình qua giọng ca nghẹn ngào, ray rứt của ca sĩ Ngọc Anh cùng với
lối diển xuất như trút hết đam mê lên từng cung nhạc của cô thì cái chắc
niềm hạnh phúc và nỗi đớn đau trong ông sẽ trỗi dậy mạnh mẽ đến ngần
nào?
Xưa kia, cũng hai nhạc phẩm này, giới yêu văn nghệ cùng thế hệ với
người viết chắc cũng đã từng được thưởng thức không chỉ một mà qua nhiều
giọng ca. Ca sĩ Thái Thanh với tiếng hát được mệnh danh vượt thời gian
của mình, ngay cả giọng ca cao sang của ca sĩ Lệ Thu hay miên man buồn
của Julie cũng đã từng đóng góp. Gần hơn có giọng ca yểu điệu ý Lan, bên
nam giới với giọng ca gai góc tinh luyện không lẫn vào đâu được của ca
sĩ Tuấn Ngọc hay mượt mà cao vút của hai ca sĩ Đức Tuấn và Bằng Kiều
v.v…. nhưng phải thú nhận, qua hai nhạc phẩm này, tiếng hát mịt mùng ray
rứt của ca sĩ Ngọc Anh đã chinh phục trọn vẹn sự ngưỡng mộ của đại đa
số giới thưởng ngoạn. Nói vậy, không có nghĩa là người viết phủ nhận
những tiếng hát đã thành danh như đã nêu trên. Lẽ dĩ nhiên là “mỗi người
mỗi vẻ” mà “vẻ” của Ngọc Anh chắc là đại đa số khán giả đắc ý nhất. Có
lẽ chất giọng khàn khàn vừa nghẹn ngào vừa ray rứt cùng lối diễn xuất
độc đáo của cô hạp với thể nhạc bi lụy này chăng?
Người ta vẫn không thường nói, có những ca khúc làm nên tên tuổi của
ca sĩ và ngược lại đó sao! nhưng với Ngọc Anh và nhạc phẩm này thì không
thể nói “lấy của thằng miền xuôi nuôi thằng mạn ngược” được mà là ngược
xuôi, cả hai đều được cả.
Vâng, nếu ai đó nhận hết được nét hạnh phúc lộ rõ trên gương mặt của
nhạc sĩ Lam phương trong Thúy Nga Paris By Night khi ông thưởng thức
nhạc phẩm “Em Đi Rồi” của mình qua tiếng hát đầy giao động và sầu cảm dữ
dội này, cho dù ông đang bị khống chế bởi chiếc xe lăn thì mới cảm hết
sức cuốn hút của nó? Thiết nghĩ lời nhạc cũng như âm điệu càng bi lụy,
càng ray rứt bao nhiêu, Ngọc Anh càng chứng tỏ bấy nhiêu lối nhập vai
giao động quyền biến của mình mà chinh phục bao trái tim của giới thưởng
ngoạn. Phải nói, đây là tiếng hát có sức cuốn hút lạ thường, tiếng hát
ấy khi cất lên như ẩn chứa nhiều đam mê, nó chẳng những có khả năng khơi
dậy cả một vùng trời xuyến xao trong lòng người nghe mà còn đưa giới
thưởng ngoạn ngập chìm vào một không gian dạt dào xúc cảm.
Tôi cũng sẽ chẳng nghi ngờ nếu ai đó bảo rằng Ngọc Anh phải là một
người đàn bà hết sức đam mê và biết yêu mãnh liệt lắm lắm mới có thể
diễn đạt hết ý những nhạc phẩm bi lụy đến như vậy. Nghĩ rằng, chỉ nghe
Ngọc Anh hát không chưa đủ mà phải thưởng thức Ngọc Anh diển xuất bằng
mắt bằng môi và bằng cả đôi tay thon dài lúc hụt hẫng khi chới với của
cô nữa thì mới thấm, nó như là điều kiện ắt có và đủ.
Trở về với nhạc sĩ tài hoa Phạm Đình Chương và nhạc phẩm Nửa Hồn
Thương Đau, giới am tường văn nghệ không ai phủ nhận tài phổ nhạc của
ông. Cho đến nay hấu hết những nhạc phẩm ông phổ từ thơ đều được xem là
đạt đến đỉnh điểm của nó, nhất là những tình khúc dở dang nhiều bất
trắc, nếu ai đó chịu khó đem so với những nhạc phẩm phổ thơ của những
nhạc sĩ khác mà nhạc phẩm “Nửa hồn thương đau” là một điển hình. Trong
những nhạc tình nổi tiếng của ông, hình như thơ có vị trí không khiêm
nhường chút nào, nó như là hương là sắc và chỉ cần trang điểm thêm những
thanh âm rung cảm đồng điệu thì bỗng nhiên chắp cánh, nó là cô gái lọ
lem chờ lọt vào mắt xanh của hoàng tử. Có ai ngờ rằng chỉ với vỏn vẹn 2
câu “Đôi khi anh muốn tin, Ôi… những người khóc lẻ loi một mình” trong
thi phẩm Lệ Đá xanh của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền mà ông đã phổ diễn thành
nhạc phẩm bất hủ “Nửa Hồn Thương Đau”. Tôi chắc rằng, nếu không có Nửa
Hồn Thương Đau của Phạm Đình Chương thì mấy ai biết đến Lệ Đá xanh của
Thanh Tâm Tuyền. Cũng vậy, nếu ai đó bất chợt đọc được đâu đó một bài
thơ hay, đố mà người ấy nhớ được lâu những lời thơ và tên tác giả nếu
không chịu khó học thuộc lòng? Phải chăng chính nhờ những thanh âm của
nhạc sĩ tài hoa mà những lời thơ hay mới ăn sâu trong lòng người thưởng
ngoạn. Chắc có lẽ bắt nguồn từ sự rung cảm đồng điệu giữa nhạc sĩ và thi
nhân cũng nên. Cái khả năng của nó là làm cho cả hai quyện vào nhau mà
cùng chắp cánh.
Giới yêu văn nghệ Sài Gòn ngày xưa làm sao có thể quên được những
nhạc phẩm nổi tiếng được nhạc sĩ tài hoa Phạm Đình Chương phổ từ thơ như
Đôi mắt người Sơn Tây của thi sĩ Quang Dũng qua giọng ca của Duy Trác
hay Mộng dưới hoa (Tự tình dưới hoa) của thi sĩ Đinh Hùng qua giọng ca
của Jo Marcel vào giữa thập niên 60, Màu kỷ Niệm của thi sĩ
Nguyên Sa qua tiếng hát của Thái Thanh, Người đi qua đời tôi của Trần Dạ
Từ với giọng ca của Lệ Thu. Đặc biệt gần đây, trong đêm nhạc riêng của
mình ở Sài Gòn với chủ đề “Khung Trời Ý Lan” tại phòng trà Đồng Dao,
cũng nhạc phẩm “Người đi qua đời tôi” này, ca sĩ Ý Lan đã mời nhạc sĩ
Nguyễn Ánh 9 lên đệm piano cho mình, để rồi do quá xúc động mà cả kẻ hát
lẫn người đàn đều rưng rưng lệ, sau đó Nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 đã không
nén nổi cảm xúc, chia sẻ: “Cách đây 40 năm tôi đã đệm đàn cho Thái Thanh
hát ca khúc này, giờ đây tôi lại được hân hạnh đệm đàn cho ái nữ của cô
ấy. Đúng là duyên văn nghệ mà tôi có được trong sự nghiệp âm nhạc của
mình. Ý Lan đã cho tôi sống lại những ký ức của một thời xuân trẻ”.
Câu nói “Ý Lan đã cho tôi sống lại những ký ức của một thời xuân trẻ”
đủ để gợi cho ai đó cả một bầu trời thương nhớ cũ, Sài Gòn thuở xưa,
Sài Gòn của những thập niên 60, giới trẻ lúc bấy giờ có cái mốt thưởng
thức nhạc ở phòng trà, với cà phê, với khói thuốc với những suy tư về
thân phận và song song với nó là nơi bưng biền hay những vùng ven đô,
những tiếng súng bất an đang manh nha gây hấn, rồi chiến tranh lan dần
và ngày thêm khốc liệt, có những vùng quê nhen nhúm màu sắc của điêu
tàn, có những thị trấn đánh động nỗi bất an thì cũng là lúc nơi quân
trường hàng hàng lớp lớp thanh niên đang đổ mồ hôi trong tôi luyện để
chiến trường bớt đổ máu…..
Lúc bấy giờ những quán nhỏ của sinh viên cũng được giới trẻ nhiệt
tình chiếu cố, Quán Văn sau trường Đại học Văn khoa, Quán Tre của Khánh
Ly ở đường Đinh Tiên Hoàng, Quán Thằng Bờm ở đường Đề Thám, Quán Đà Lạt
gần sân vận động Cộng Hoà v.v…. Những La Pagode, Brodard hay Givral
sang trọng hình như chỉ hiện diện một thiểu số giới trẻ con nhà giàu nào
đó thôi. Nhân đây người viết cũng xin có đôi nét về phong trào văn nghệ
Sài Gòn một thời. Sau hiệp định Geneve năm 1954, đất nước bị chia đôi,
một số ca nhạc sĩ nổi tiếng Hà Nội di cư vào Nam, dù chỉ với “hai bàn
tay trắng” mà họ đã làm nên “biết bao nợ nần”. Vâng, chính họ đã góp
phần không nhỏ trong việc tạo cho phong trào văn nghệ Sài Gòn trở nên đa
dạng với nhiều dòng nhạc dành cho mọi tầng lớp thưởng ngoạn. Thị trường
âm nhạc bỗng nhiên sôi động hẳn lên cùng với đa số những ca sĩ nổi
tiếng người Hà Nội góp mặt ở các phòng trà.
Thưởng thức nhạc ở phòng trà là một nét văn hóa của Sài Gòn lúc bấy
giờ, phòng trà mọc lên khắp nơi, trước có Văn Cảnh, Đức Quỳnh, Anh Vũ
sau có Queen Bee, Tự Do, Ritz, Maxim’s, Đêm Màu Hồng với các ban nhạc
tên tuổi và các giọng ca sáng giá. Sau này có một loại phòng trà ca nhạc
khác nữa là phòng trà sinh viên như đã nói trên. Trong khi các phòng
trà nổi tiếng là nơi dành các khán giả có điều kiện thì phòng trà sinh
viên do sinh viên mở ra nó bình dân hơn và lẽ dĩ nhiên là cũng để dành
cho chính họ. Sau sự kiện 30-4-1975 cái gọi là giải phóng, các phòng trà
này cũng được giải phóng nốt.
Người dân Miền Nam không thể nào quên được chuyện “kẻ chiến thắng” ra
lệnh cấm và thiêu hủy những sản phẩm văn hóa của Miền Nam trong đó có
sách vở, băng nhạc, phim ảnh và lẽ dĩ nhiên, những văn nghệ sĩ Miền Nam
cũng đã được họ đặc biệt chiếu cố. Cả một bộ máy tuyên truyền của chế độ
lên án những nhạc phẩm của Miền nam, họ cho đây là loại Nhạc Vàng đồi
trụy, phản động để rồi chuyện cấm kỵ này kéo dài lây lan đến gần cả hai
thập niên. Bây giờ lẽ dĩ nhiên đã khác, nghe nói mới đây đôi ca sĩ Tuấn
Vũ & Hương Lan đã mang nhạc vàng Sài Gòn cũ ra chinh phục Hà Nội. Họ
trình diễn tại nhà hát lớn vào đêm 16-10-2010 sau khi đại lễ Ngàn Năm
Thăng Long kết thúc. Đôi song ca này đã mở đầu show diễn vào ngày
11-8-2010 và được khán giả Hà Nôi đón nhận nhiệt tình, giá vé dù có đắt,
tương đương với mấy mươi đô la Mỹ nhưng mỗi show diễn đều bán sạch và
kéo dài mấy tuần liền, đến nỗi nhạc sĩ Đặng Hữu Phúc phải viết một bài
mang tựa đề : “ Khi Đặng Thái Sơn không thể “ địch” lại Hương Lan Tuấn
Vũ” với những dòng như sau :
“Có lẽ Đặng Thái Sơn mà biểu diễn tới đêm thứ 3 ở Hà Nội bây giờ chắc cũng chẳng có mấy ai xem. Không thể “địch” lại với Hương Lan, Tuấn Vũ, Tuấn Ngọc… Hồi cuối tháng 8 vừa qua, show diễn hát theo yêu cầu của họ ở Nhà Hát Lớn giá 1 triệu rưỡi đến 1 triệu 7 cho 1 vé. Biểu diễn hàng nửa tháng trời mà vẫn kín chỗ, không có vé mà mua. Mà hình như họ ăn khách Thủ đô đến ngỡ ngàng, vượt cả sự tưởng tượng của chính họ, nên họ lại đã quảng cáo biểu diễn tiếp tại Nhà hát lớn sau Đại lễ 1000 năm”
“Có lẽ Đặng Thái Sơn mà biểu diễn tới đêm thứ 3 ở Hà Nội bây giờ chắc cũng chẳng có mấy ai xem. Không thể “địch” lại với Hương Lan, Tuấn Vũ, Tuấn Ngọc… Hồi cuối tháng 8 vừa qua, show diễn hát theo yêu cầu của họ ở Nhà Hát Lớn giá 1 triệu rưỡi đến 1 triệu 7 cho 1 vé. Biểu diễn hàng nửa tháng trời mà vẫn kín chỗ, không có vé mà mua. Mà hình như họ ăn khách Thủ đô đến ngỡ ngàng, vượt cả sự tưởng tượng của chính họ, nên họ lại đã quảng cáo biểu diễn tiếp tại Nhà hát lớn sau Đại lễ 1000 năm”
Nhắc đến phong trào văn nghệ Sài Gòn thuở ấy là nhắc đến biết bao kỷ
niệm buồn vui nhưng cũng đừng quên nhắc đến Sài Gòn cũng là nhắc đến
mưa, đến nắng đến những ánh đèn vào đêm trên những đường phố trung tâm
hay những con hẻm lầy lội dưới mưa. Nhắc đến Sài Gòn thuở ấy là nhắc đến
những tụ điểm ăn chơi, những tiếng rao khuya, những tiếng gõ chào mời
trong đêm vắng hay những xe đẩy hàng ăn trên phố. Có một điều thú vị ít
ai chú ý là cho đến nay dù là đã thay tên đổi họ, dân Sài Gòn chính tông
chẳng bao giờ chịu gọi Sài Gòn là thành phố Hồ Chí Minh, thậm chí là
thành phố Sài Gòn, không có từ thành phố đi chung với nó. Chỉ khi nào
với hàm ý gì đó thì lại khác. Cứ hãy thử tưởng tượng vào phòng trà
thưởng thức nhạc tình mà mặc áo vet đội nón cối xưng đồng chí với nhau
thì tréo cẳng ngổng biết chừng nào. Thế nhưng Sài Gòn bây giờ đã khác,
đâu rồi một Sài Gòn của thời xa vang bóng “nghìn năm hồ dễ mấy ai quên”.
Đêm nay tôi đưa em về
Đường khuya sao trời lấp lánh
Đêm nay tôi đưa em về
Mắt em sao sáng long lanh
Đêm nay khi em đi rồi
Đường khuya riêng một mình tôi
Đêm nay khi em đi rồi
Tôi về đếm bước lẻ loi
…………………………….
Đêm mai không ai đưa về
Người ơi xin đừng hờn dỗi
Đêm nay cô đơn đi về
Xin người hãy nhớ tình tôi
Đây là một nhạc phẩm hay của nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 mà một thuở người
viết vẫn thường nghêu ngao hát. Cảm ơn nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 đã dâng cho
đời những cung bậc rung cảm nhẹ nhàng mà cũng đầy da diết.
Trở lại với nhạc sĩ Phạm Đình Chương, năm 1979, ông vượt biên, rồi
định cư ở Hoa Kỳ, tình cờ đọc được bài thơ “Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn” của
thi sĩ Du Tử Lê trên trang báo, không để mất cơ hội, ông chộp lấy và
xuất thần chuyển vào ngôn ngữ của âm nhạc, thế là ca khúc “Đêm, Nhớ
Trăng Sài Gòn” ra đời và trở thành tuyệt khúc qua tiếng hát của nữ ca sĩ
Lệ Thu lúc bấy giờ.
Phải nói ở bên kia dốc đời của nhạc sĩ tài hoa Phạm Đình Chương là cả
một cung nhạc thảm sầu, nó vừa là nạn nhân mà cũng vừa là tác nhân, nó
vận vào ông để ông cảm tác những bài tình ca bất hủ.
Số là, vào những năm 57, 58 thì phải, giới yêu văn nghệ Sài Gòn xôn
xao không ít, báo chí phải tốn nhiều giấy mực bởi phải đăng nhiều kỳ vụ
ly dị giữa nhạc sĩ Phạm Đình Chương và người vợ tài sắc của ông là ca sĩ Khánh Ngọc, đến nỗi tòa phải xử dai dẳng mới đi đến kết thúc. Như đã
biết, Khánh Ngọc từng được giới mộ điệu mệnh danh là “Ngọn núi lửa”. Cô
vừa làm ca sĩ, vừa làm tài tử điện ảnh có một nhan sắc quyến rũ và một
thân hình nóng bỏng. Tài nghệ và nhan sắc của cô đã làm say đắm bao lòng
khán giả mỗi khi cô xuất hiện.
Dù nhạc sĩ Phạm Đình Chương trước khi ly dị cũng đã nghe phong phanh
đâu đó vợ của mình ngoại tình nhưng ông vẫn bỏ ngoài tai vì tình yêu và
tin tưởng ở tình yêu của vợ. Chỉ đến khi một số bạn thân văn nghệ làm
chỉ điểm để ông bắt được tại trận ở Nhà Bè thì sự việc mới vỡ lẽ. Tin
tức lan nhanh như nước lũ mùa lụt, báo chí Sài Gòn lúc bấy giờ khai thác
triệt để, nhất là nhật báo Sài Gòn Mới của bà Bút Trà. Thế là vụ “ăn
chè Nhà Bè” được suy diễn hơn cả mức độ “chả nem” của nó. Lẽ dĩ nhiên,
nhân vật thứ 3 và cũng là thủ phạm đã được dư luận nhiệt tình chiếu cố.
nhưng nói cho cùng, người đau nhất vẫn là nhạc sĩ Phạm Đình Chương và
nạn nhân thứ hai là chị ruột của mình. Tuy vẫn còn yêu vợ, nhưng ông
không đủ can đảm đạp lên dư luận mà đi nên đành phải gạt lệ đâm đơn li
dị. Nghe nói, lúc ấy thủ phạm cũng đã từng cầu cứu đến Bộ Thông Tin, yêu
cầu báo chí thôi làm ồn và cho ngưng những loạt phóng sự “Nhà Bè” này.
Sau khi li dị, nhạc sĩ Phạm Đình Chương phải chịu cảnh gà trống nuôi
con, sau một thời gian ông đã cố gắng duy trì cuộc sống trở lại bình
thường sau đó ông đã hát và sáng tác trở lại. Một đêm, tình cờ trên một
sân khấu đại nhạc hội, không hẹn mà gặp và ông đã bị từ chối khi ngỏ ý
muốn đưa người cũ của mình về nhà vì trời đang mưa. Quá đắng cay, ông
lặng lẽ về căn nhà với chập chùng kỷ niệm, nhìn mưa rơi mà lòng tan nát,
tủi thương cho thân phận, ý định tìm chết bỗng chớm trong ông, nhưng
tiếng khóc của trẻ thơ đã làm ông bừng tỉnh mà níu ông lại! Nhạc phẩm
“Nửa hồn thương đau” được ra đời cũng vào cái đêm mưa hôm đó.
Tôi lan man viết lại chuyện tình buồn này của nhạc sĩ Phạm Đình
Chương như một chia sẻ mà cũng là để lòng tri ân đến ông cùng những nhạc
sĩ khác, những người chỉ vì một bất hạnh nào đó trong đời sống tình cảm
để rồi sự đáp trả của họ là dâng cho đời những tình khúc bất hủ.
Tôi trân trọng những tác phẩm nghệ thuật có giá trị cho dù cá nhân
người nghệ sĩ sáng tác ấy dưới mắt một số người thậm chí nhiều người là
có những khuyết điểm. Chúng ta vẫn không thường nói “nhân vô thập toàn”
đó sao? Tâm hồn chúng ta vốn dĩ đã nghèo nàn thì dại gì phải để nó lâm
vào cảnh túng thiếu khi mà chỉ vì không chấp nhận tư cách cá nhân của
một người nghệ sĩ tài hoa nào đó để rồi phải loại ra những tác phẩm nghệ
thuật có giá trị mà họ đã dâng cho đời.
Viết đến đây tôi chợt nhận ra có một ưu điểm mà thế hệ chúng tôi được
thừa hưởng ở miền nam đó là sự trưởng thành trong văn hóa ứng xử. Nhờ
đó mà người nghệ sĩ tài năng ở giai đoạn này luôn có được thuận lợi
trong sáng tác cũng như phổ biến những đứa con tinh thần của mình, quyền
tự do tư tưởng ít ra cũng được tôn trọng cho dù người nghệ sĩ tài năng
đó có như thế nào? màu sắc “chính trị” có ra sao? thường thì họ vẫn có
chỗ đứng và được quần chúng chấp nhận thậm chí còn được bảo bọc và lẽ dĩ
nhiên giới cầm quyền ít nhất cũng phải tôn trọng. Nghĩ rằng, lối ứng xử
này cần phải củng cố mà tạo thành tập quán, nhất là cho thế hệ tiếp
nối, cho dù bạo quyền CS ngày nay có tàn ác đến đâu, có bất nhân đến
mấy… rồi cũng qua đi, nhưng nếu dân tộc đánh mất đi cái tính tối thiểu
của tự do dân chủ, cái tình tối thiểu của lòng nhân ái, đánh mất đi cái
giềng mối đạo đức căn bản của con người thì khó mà phục hồi được?
© Sông Lô
© Đàn Chim Việt