Xích Tử
Lời phát biểu bế mạc của Tổng bí thư cùng với Thông báo của BCH
TƯ về Hội nghị lần thứ 5 hoàn toàn thống nhất với lời phát biểu khai
mạc của người đứng đầu Đảng CSVN định hướng cho kết quả của một chương
trình nghị sự được dự báo: Thận trọng trong việc sửa đổi Hiến pháp vì
đây là chuyện “nhạy cảm”, không bỏ Điều 4 vì như vậy là “tự sát”,
duy trì khái niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không tam quyền
phân lập do đảng cộng sản lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện, không phục
hồi chế độ tư hữu về đất đai và không có việc đòi lại đất đã bị cưỡng
đoạt, xử lý trong lịch sử pháp luật ở lĩnh vực này.
Phản ứng chính sách này của đảng là tất nhiên trong chuỗi động thái
phòng vệ, tự bảo vệ, chống sự rối loạn dẫn đến mất quyền lãnh đạo đất
nước và các đặc quyền thực tế khác được tạo nên do quyền lãnh đạo đó. Sự
khẳng định đó không chứng minh thêm gì về đổi mới tư duy, về tầm trí
tuệ, về sự phát triển của văn minh chính trị, chân lý chính trị, mà chỉ
là biểu hiện của sự đuối lý, của thế thua, của sự bảo thủ. Bằng mọi giá,
đảng phải níu giữ quyền lãnh đạo thông qua các công cụ trấn áp bạo lực
và một hệ thống luật pháp ngày càng có tính cai trị chuyên chế, ngày
càng tạo ra và được tạo ra trong quan hệ bất bình đẳng giữa chính đảng
nắm quyền lực, nhà nước do chính đảng đó lập nên với quảng đại nhân dân
đến mức mâu thuẫn chín muồi cho một tình thế cách mạng theo tiêu chuẩn
cổ điển. Cũng bằng mọi giá, đảng cố duy trì hiện trạng chính trị, có
điều chỉnh ngoại vi để hoãn binh chi kế và đẩy những mâu thuẫn tiềm ẩn
đó cho các thế hệ sau, trong đó con cháu của các vị chóp bu vẫn là người
cầm quyền.
Biểu hiện ngoan cố chính trị đó là kết quả của một chuỗi diến biến
lịch sử nắm quyền lãnh đạo không quang minh chính đại, không chính thống
của đảng. Trong giai đoạn 1930 – 1945, đảng đã dùng chiêu bài đấu tranh
giai cấp, chống bóc lột, bất công, vẽ ra một thiên đường hạ giới với
người cày có ruộng, công nhân không bị tư bản bóc lột, mọi người tự do,
xã hội dân chủ…kết hợp với chống thực dân giành độc lập để thu hút, tập
hợp,tổ chức lực lượng (cách nói hoa mỹ của sự lừa phỉnh) tiến đến việc
sử dụng bạo lực với sự hỗ trợ của nước ngoài để cướp chính quyền tháng
8/1945.
Từ 1945 đến 1976, suy cho cùng, đảng đã sử dụng, lợi dụng, vận dụng
cuộc chiến tranh giải phóng, giành độc lập như một công cụ bạo lực để áp
đặt mô hình chính trị xã hội chủ nghĩa lên một nửa, rồi cả đất nước, để
xây dựng và củng cố nền chuyên chính “vô sản” với toàn bộ
thiết chế quyền lực, chính quyền, kinh tế, văn hoá, tư tưởng, tôn giáo…,
điều chỉnh cả đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc, điều chỉnh cả
lịch sử và cưỡng chế niềm tin cũng như sự hình dung của nhân dân về mô
hình đất nước trong tương lai. Tất cả sự thiết lập ấy đều được tạo ra từ
mũi súng.
Chỉ riêng chuyện đất đai, nông dân, và nông thôn, qua toàn bộ tiến
trình đó, đã cho thấy sự thất bại của cuộc cách mạng, nếu hiểu cuộc cách
mạng đó là thành tâm, hoặc có thể là một sự phản bội, nếu nhìn cuộc
cách mạng như một thứ vận động chính trị cơ hội chủ nghĩa, một kiểu lừa
đảo lịch sử. Người nông dân, nông nghiệp, nông thôn là đối tượng bị đối
xử tàn bạo nhất trong cách mạng. Đến thời điểm này, khi phải điều chỉnh
bằng chính sách đổi mới, xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, người nông dân xem như mất sạch, và nông thôn trở thành gánh
nợ bị phân biệt đối xử.
Từ năm 1930, khi khởi mào cho những câu hát ru cách mạng, có những ông lão “ngồi mơ nước Nga”
(ý thơ Tố Hữu) với sự hứa hẹn của đảng về ruộng đất cho dân cày, về
người cày có ruộng. Những nông dân là canh điền, tá điền, lãnh canh nộp
tô cho địa chủ thời ấy mơ mộng sẽ có lúc triệt hạ hết địa chủ và giành
ruộng đất trở thành sở hữu của mình.
Lời hứa đó được duy trì và điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu thu hút
các lực lượng cách mạng trong suốt thời kỳ bí mật bằng cách làm mềm đi
đối tượng địa chủ thông qua việc phân loại dựa trên diện tích sở hữu của
họ và mức độ câu kết của họ với chính quyền thực dân, phong kiến. Nhờ
đó, lời hiệu triệu về đất đai vẫn hấp dẫn với tuyệt đại đa số nông dân
nghèo, không có hoặc có ít ruộng đất, đồng thời trấn an số “địa chủ” lớp dưới với hứa hẹn về chính sách tịch thu, trưng thu, trưng mua mềm dẻo tuỳ từng đối tượng.
Trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tình
trạng đó vẫn án binh bất động. Đến giai đoạn cuối, do sự phát triển về
lực của chính quyền kháng chiến, cục diện chiến trường, và đặc biệt là
sự chỉ đạo của Trung Quốc, Chính phủ Việt Minh trở lại chính sách đất
đai với mức độ từ thấp đến cao để đạt mục tiêu cưỡng đoạt và cưỡng chiếm
quyền sở hữu loại tài sản đặc biệt này của nhân dân. Bắt đầu là phong
trào vận động giảm tô trong vùng kháng chiến với Sắc lệnh 14/7/1949; đến
12/4/1953, Chính phủ Việt Minh lại ra Sắc lệnh phát động quần chúng
triệt để giảm tô để thêm một bước tiến công vào các tầng lớp địa chủ,
động viên nông dân. Ngày 19/12/1953, Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà ra Sắc lệnh ban bố Luật Cải cách ruộng đất đã được Quốc hội khoá I
thông qua trong kỳ họp thứ 3 (1-4/12/1953). Nội dung chủ yếu của Luật,
được thực hiện ngay sau đó ở những vùng thuộc chính quyền kháng chiến
kiểm soát thuộc khu vực đồng bằng là xử lý địa chủ; tổ chức đấu tố; tịch
thu, trưng thu đất của đối tượng này và huy động nguồn công điền, nguồn
đất hoang để chia cho nông dân. Phong trào này được tuyên truyền mạnh
mẽ, có chụp ảnh đăng báo cảnh nông dân đi nhận đất, cắm cờ hả hê và nhờ
đó, cùng với các đợt chỉnh huấn, chỉnh quân, kiểm thảo, nó có tác dụng
động viên sức chiến đấu của những người lính gốc nông dân trong trận
quyết đấu Điện Biên Phủ.
Trong chiêu bài phản phong, cuộc cải cách ruộng đất theo Luật 1953
thực chất là tiến hành cách mạng quan hệ sản xuất ở nông thôn, theo quan
điểm marxist, trong đó trước hết là quan hệ trong chiếm hữu tư liệu sản
xuất. Ở một khía cạnh khác, đây là cuộc đấu tranh giai cấp trong nội bộ
nhân dân theo kịch bản dàn dựng để đủ bộ lệ cho các nước làm cách mạng
xã hội chủ nghĩa Á châu bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa Mao. Cuộc đấu tranh
đó tiếp tục diễn ra một cách khốc liệt sau 1954 ở miền bắc với nhiều sai
lầm, tội ác nghiêm trọng để đảng tạm phải dừng lại, sửa sai vào năm
1956; song kết quả của cách làm sai lầm, gần như là tội ác chống lại
nhân dân đó lại là cơ sở thuận lợi cho công cuộc hợp tác hoá nông nghiệp
bị áp đặt bởi Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thông qua nghị
quyết về vấn đề hợp tác hoá nông nghiệp ngày 27/5/1959 – một động thái
mà Quốc hội xem như “cuộc cách mạng hoà bình”, chuẩn bị cho những qui
định về chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai trong Hiến pháp 1959 và
đặc biệt là từ Điều 19 của Hiến pháp 1980. Bằng những bước đi này, những
hình ảnh người nông dân được chia ruộng đất để làm chứng cho chính sách
người cày có ruộng đã được rêu rao từ những năm 30 chỉ kéo dài được
không quá 6 năm (1953 – 1959); những mảnh ruộng được chia đó chưa ấm tay
người nông dân thì đã bị sung vào hợp tác xã, thuộc sở hữu tập thể,
bước thứ nhất của sở hữu toàn dân.
Điều đáng ghi nhận là tất cả cách xử lý có tính lịch sử của nhà nước
cộng sản Việt Nam vế đất đai từ những năm 50 của thế kỷ trước đến nay
đều kế tục quan điểm xem đây là tư liệu sản xuất hoặc đối tượng lao
động; nó không phải là tài sản chiếm hữu hoặc sở hữu để chế tài như các
thông lệ về quyền tư hữu tài sản đã ghi trong Hiến pháp 1946. Dựa vào lý
thuyết marxist về quan hệ sản xuất, nhà nước cộng sản Việt Nam xem đất
đai như một hiện tượng bất bình đẳng trong chiếm hữu tư liệu sản xuất do
chế độ phong kiến tạo ra; vì vậy, để làm cách mạng xây dựng chế độ mới,
phải từng bước xoá bỏ triệt để hiện tượng này. Đây không phải là quá
trình pháp luật liên quan đến quyền sở hữu tài sản, mà là chuyện chính
trị của quá trình cách mạng; nó không thuộc phạm trù kế thừa luật pháp
hình sự, dân sự; không phải là nhân quyền hay dân quyền, mà là một hiện
tượng phản động của lịch sử, cách mạng có quyền xoá bỏ.
Điều này khác hẳn và tạo ra phân biệt xử lý giữa đất đai và các tài
sản khác của người dân nói chung và người nông dân nói riêng. Vì vốn là
tài sản lịch sử nên đất đai của người dân, kể cả địa chủ và các tầng lớp
nông dân, đều được hình thành do sự đầu tư riêng (mua bán, kế thừa,
chuyển nhượng; cả của tập thể họ tộc, chùa chiền, nhà thờ và cá nhân),
song khi đi vào hợp tác hoá, trong khi đất đai bị quốc hữu hoá hoàn toàn
, bị cải biến hoàn toàn về hình thức tồn tại thì các tài sản khác vẫn
được bảo lưu trong nguồn vốn tập thể, trong hình thức liên doanh, công
tư hợp doanh. Sự bất công này kéo dài cho đến khi nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa bị phá sản vào những năm 80, 90; khi đó, các doanh nghiệp nhà
nước, vốn là tài sản của dân, bị bán tống tháo đi với nhiều cách làm rất
tiêu cực qua quá trình cổ phần hoá biến đảng viên cộng sản công, thương
nghiệp thành người chủ cổ phần, tức tư nhân hoá, tư bản hoá tài sản xã
hội chủ nghĩa, người nông dân vốn đã bỏ những tài sản rất thật của mình
vào công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa vẫn tiếp tục bị tước đoạt. Lúc
họ bỏ ra đất đai để làm cách mạng, họ đã chấp hành một chính sách cưỡng
đoạt, để mua lấy sự an toàn và niềm tin về một xã hội mới. Khi mô hình
xã hội mới đó phá sản, những người cộng sản tìm cách hưởng lợi khác thì
người nông dân bị bỏ rơi với cách nói chẳng nghĩa tình gì: đất đai là sở
hữu toàn dân, không có bất kỳ sự cứu xét nào về lịch sử chính sách đất
đai, về đối tượng đất đai đã bị cách mạng xử lý. Cũng vào lúc ban đầu
ấy, không có ai nói với họ về sự hài hoà lợi ích giữa nhà nước, người
dân và nhà đầu tư như kiểu giải thích ngụy biện và cơ hội chủ nghĩa như
bây giờ; chỉ có một lợi ích duy nhất là chủ nghĩa xã hội. Làm gì có cái
gọi là nhà đầu tư vào những năm 50 ở miền bắc và những năm 70, 80 ở miền
nam và cũng làm gì cần phải đặt ra sự hài hoà lợi ích về đất đai giữa
nhà nước và người dân nếu nhà nước là của dân, do dân, vì dân!
Suy cho cùng, khi đã lộ cái đuôi lợi ích ra vì kinh tế thị trường, vì
những tiêu cực nảy sinh tất yếu và cố tình do chính sách đất đai; khi
tư liệu sản xuất của chủ nghĩa xã hội trở thành tài sản của tư bản nước
ngoài, tư bản đỏ trong nước với sự hỗ trợ, chia chác của nhà nước cộng
sản, mới có cách giải thích như vậy. Còn từ khởi thuỷ của cách mạng, khi
quốc hữu hoá đất đai, những người cộng sản chỉ đơn giản tước đoạt toàn
bộ hạ tầng kinh tế của hộ gia đình nông dân và các tầng lớp dân cư nông
thôn khác, tước đoạt công cụ sinh nhai tự túc – kẻ thù của công hữu cộng
sản- của dòng họ, tôn giáo, học hữu; qua đó, họ muốn triệt hạ toàn bộ
thiết chế vật chất và tinh thần của xã hội cũ, xã hội phong kiến, để cho
sản phẩm của xã hội mới thay thế; nhờ vậy ơn đảng, ơn nhà nước mới có
gí trị. Chuyện quốc hữu hoá đất đai nói riêng, các tư liệu, phương tiện
sản xuất khác nói chung của mô hình xã hội chủ nghĩa ấy không phải chỉ
là vì mục tiêu kinh tế và nếu chỉ vì mục tiêu ấy thì cộng sản quả là
không trí tuệ; mục đích chính là chính trị, là cải tạo xã hội. Hợp tác
xã là một thiết chế quản lý con người về phương diện dạ dày, và qua dạ
dày để quản lý trái tim và khối óc; ông chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp
có quyền quyết định một thanh niên có được đi học đại học hay không
thông qua thủ tục cắt chuyển tiêu chuẩn lương thực từ địa phương cấp xã
đến trường đại học. Chủ nghĩa xã hội khi tịch thu đất đai của nông dân
chính là vì vậy; cho nên sau này, khi đánh giá những sai lầm của nền
kinh tế tập trung kế hoạch hoá, đảng vẫn móc vào đó một ý khen là nhờ đó
mà huy động được lương thực cho chiến trường, động viên được quân lực
(vì không nhập ngũ thì lấy đâu ra gạo ăn) và hạt gạo chia tư cho cả “nghĩa vụ quốc tế”.
Cái mất của người nông dân là bị tước đoạt của cải để phục vụ mục tiêu
phấn đấu cho công bằng, bình đẳng, tự do, dân chủ, giống như một sự góp
vốn làm ăn, song khi mục tiêu của công cuộc làm ăn thất bại, cái vốn ấy
không được trả lại và biến thành lợi ích của các nhóm khác, bao gồm chủ
yếu nhóm cai trị. Qua cái bị mất hữu hình đó, họ đồng thời cũng bị tước
đoạt những giá trị vô hình liên quan đến quyền sở hữu tư nhân tài sản,
vốn rất thiêng liêng, được hình thành qua hàng nghìn năm phát triển của
lịch sử dân tộc, của nhân loại. Với mỗi người nông dân Việt Nam, đất đai
là núm ruột, là tình cảm của ông cha để lại, là kết quả sự cố gắng tằn
tiện, “ăn mắm mút giòi” suốt đời của đôi vợ chồng nghèo dành
cho con cháu, là ngôi mộ của tổ tiên, ông bà ở đó, là mối liên kết, chia
sẻ trách nhiệm của các thành viên dòng họ, xứ đạo, bổn hữu của ngôi
chùa, là tuổi thơ, bến nước, con đò… Khi họ mất tài sản đất đai, những
cái ấy cũng sẽ mất đi. Không thể có cách nói nguỵ biện đương đại về mục
tiêu kinh tế hướng đến nền sản xuất lớn trong nông nghiệp, một nền “nông nghiệp hợp lý hoá”
khi quốc hữu hoá đất đai trước đây và rục rịch toa rập tích tụ đất đai
hiện nay với những trích dẫn marxist cũ rích như kiểu của tác giả Đỗ Thế
Tùng trên Tạp chí cộng sản . Trong khi nhiều nước có nền nông nghiệp
cực kỳ hiện đại, là cường quốc của nhiều ngành nông sản nhưng vẫn duy
trì chế độ tư hữu về đất đai thì không thể cả vú lấp miệng nông dân bằng
luận điểm “Việc qui định ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý là phù hợp với qui luật
tiến hoá và xu hướng phát triển của nông nghiệp hiện đại”, rằng “vai trò đại diện và quản lý của Nhà nước là tất yếu”.
Cùng với nông dân, nông thôn Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng, cũng
bị đánh phá đến kiệt quệ, trở thành một không gian u ám, căng thẳng.
Những cuộc đấu tố và xử lý địa chủ, phá phách chùa chiền đền miếu mồ
mả, cuộc vận động áp đặt nông dân vào hợp tác xã, thu thuế phí, động
viên thanh niên nhập ngũ, việc chia tách các thành viên gia đình và chế
độ, thời gian sinh hoạt gia đình theo mô hình sản xuất hợp tác xã, thậm
chí có lúc có nơi đã là công xã, mức thu nhập tối đa 1kg lúa/một ngày
công, cảnh nhận giấy báo tử từ chiến trường …kéo dài suốt những năm 60,
70. Nông thôn chịu vô số thiệt thòi khác do tỉ lệ thất học, mù chữ, do
trình độ dân trí bị cố tình làm chậm phát triển; cơ cấu thanh niên được
vào đại học, cao đẳng thấp, không bình đẳng với đô thị; thiếu thốn,
nghèo nàn trong thông tin, sinh hoạt tinh thần; chất lượng hiểu biết
thấp và thói cửa quyền, cường quyền của đám cán bộ hợp tác xã, chính
quyền địa phương. Tình trạng đó vẫn không khắc phục được, hoặc không
được khắc phục cho đến cả thời kỳ “đổi mới”. Các chính sách với nông
dân, nông thôn không đủ để khỏi phải huy động sự đóng góp của người dân
với hàng vài ba chục thứ phí thu hàng năm dẫn đến đỉnh điểm mâu thuẫn ở
sự kiện Thái Bình 1997. Người dân nông thôn vẫn phải cam chịu với hạ
tầng kém hơn nhiều đô thị; họ phải bỏ tiền ra để tự mắc điện rồi trả
tiền điện với giá cao hơn; họ cũng phải bỏ ra số tiền bằng thu nhập của
gia đình trong cả năm, tương đương với hàng nghìn cổ phiếu của công ty
để làm đường nông thôn nhưng không sở hữu được gì cả. Để tiếp cận với đô
thị gần nhất (đi học, mua bán, giải trí…), họ cũng phải chịu hao mòn
phương tiện và tiêu tốn nhiên liệu nhiều hơn.
Đối lập với vùng u ám chiếm tỉ lệ lớn diện tích đất nước đó, đô thị,
trong thời gian chiến tranh cũng như hoà bình, đổi mới, luôn luôn được
ưu ái, có nhiều ưu thế hơn: hạ tầng đô thị, tiện nghi đô thị, thu nhập
đô thị, các điều kiện thuận lợi về học hành, đào tạo để được tuyển dụng
vào tầng lớp cai trị, các điều kiện thoả mãn sự phát triển tinh thần và
tiếp cận với thế giới văn minh, kể cả tiếp xúc với người, thông tin của
nước ngoài. Trong khi người nông dân trực tiếp sản xuất ra lương thực,
thu nhập của họ cũng chỉ 30kg lúa mỗi tháng, tương đương 15 kg gạo,
người dân đô thị, với nguồn thu nhập bằng lương và các hình thức tiền
mặt khác dồi dào hơn, cũng được phân phối 13 kg gạo với giá 4,1 hào/kg.
Một bà già với hàng nước chè nóng ở đầu một ngõ phố Hà Nội suốt mấy
chục năm, khi đổi mới, cũng công khai của tích luỹ đến mấy chục lạng
vàng. Sau 1975, nhiều người hồi kết về miền nam đã khuyên con cháu rằng
bất cứ giá nào cũng phải chuyển vào sống trong đô thị. Cố gắng tạo nên
bình đẳng của chủ nghĩa xã hội là như vậy.
Chính sách đất đai và các chính sách kinh tế khác đã tạo ra sự đối
lập, mâu thuẫn có thật, kéo dài và ngày càng gay gắt giữa nông thôn và
thành thị, giữa nông dân với nhà nước, đồng thời cũng làm cho cái gọi là
liên minh công nông trở thành bánh vẽ. Chỉ đơn cử, một người bạn học
của người viết bài này, đang là đảng viên cộng sản, giám đốc của một
công ty chế biến nông sản ở miền trung vốn là doanh nghiệp nhà nước, tức
công sản; khi công ty chưa cổ phần hoá, lương tháng của anh ta tương
đương giá trị nguyên liệu nông sản ấy trên 2 hecta/1 năm, trong khi bình
quân diện tích/người nông dân trồng nông sản chỉ là 0,1 hecta. So sánh
tiền lãi của nông dân trong 1 năm với tiền lương 1 năm của vị giám đốc,
ta có tỉ lệ 1:2000. Hiện nay, công ty đã cổ phần hoá, anh ta thành chủ
của 1/5 tài sản công ty; thu nhập bằng lương tháng cộng cổ tức sẽ cao
hơn nhiều.
Sự thật đã và đang là như vậy. Nhưng ai cho phép nó như vậy? Đảng
cộng sản đã tạo ra tất cả bằng mũi súng, thông qua cái công cụ được hợp
hiến hoá là Quốc hội. Tổ chức ấy do đảng lập ra và phần lớn đại biểu là
đảng viên. Khi Quốc hội biểu quyết thông qua chính sách hợp tác xã,
thông qua luật đất đai, thông qua các Hiến pháp với điều khoản công nhận
quyền lãnh đạo của đảng, họ không phải đại diện cho dân và thể hiện ý
kiến của dân, mà là chấp hành đảng, không phải toàn bộ đảng viên, mà chỉ
một nhóm nhỏ có quyền đưa đất nước và dân tộc vào cuộc thí nghiệm xã
hội chủ nghĩa.
Đến bây giờ, mọi việc đã lỡ rồi, các cơ cấu đã được thiết lập và vận
hành sức mạnh của nó, để chia chác quyền lực và quyền lợi, không một ai,
trong bối cảnh văn hoá chính trị Việt Nam, có khả năng và sự dũng cảm
thay đổi. Thay vì thừa nhận tình trạng ấy, đảng vẫn nói như đinh đóng
cột rằng đất đai là sở hữu toàn dân, với một thái độ trâng tráo, ngạo
mạn đến vô ơn, vô sỉ.
Hãy cứ đưa điều đó ra trưng cầu dân ý, chắc sẽ có câu trả lời chung
cho việc khẳng định chủ nghĩa xã hội là con đường lựa chọn của toàn dân,
về chế độ công hữu, về tính nhân dân của nhà nước Việt Nam hiện nay.
Xích Tử