Andreas Lorenz
Điều đấy không phải là mới. Ý tưởng về một con đường đặc biệt của
châu Á đã phổ biến ở Viễn Đông trước khi Trung Quốc bước lên sân khấu
thế giới như là một cường quốc kinh tế. Khi cái được gọi là “những con
hổ châu Á” – Singapore, Hongkong, Đài Loan và Hàn Quốc – đạt đến những
tỷ lệ tăng trưởng cao, các chính trị gia đã đưa ra lời giải thích riêng
của họ.
Đặc biệt là nguyên thủ tướng Malasia Mahathir Mohamad và đồng nhiệm
của ông từ Singarpore, Lý Quang Diệu, đã giải thích thành công của đất
nước của họ với “những giá trị Á châu”. Các chính trị gia thản nhiên đáp
trả những người phê bình chỉ trích về đàn áp chính trị và những điều
kiện làm việc khắt nghiệt trong các nhà máy và vùng kinh tế đặc biệt của
họ, những nơi sản xuất rẻ tiền để xuất khẩu sang châu Âu và châu Mỹ và
đã trở thành gương mẫu cho nhà cải cách kinh tế Trung Quốc Đặng Tiểu
Bình: làm việc cực nhọc và kỷ luật quan trọng hơn là có phần và thảo
luận.
Mahathir, một bác sĩ đã qua đại học, tiếp đồng nghiệp tôi, Erich
Follath, và tôi vào một buổi sáng trời mưa trong tháng 10 năm 1997, ngay
giữa cuộc khùng hoảng tài chính châu Á. Ông ấy ngồi trong một gian
phòng tối tăm ở sau một bàn làm việc to trong áo đồng phục của viên chức
Malasia, một cái bảng tên màu đen trước ngực: Mahathir.
Ông có một vài cái máy tính xách tay kiểu mới nhất xung quanh mình.
Ông ấy nói với một giọng nói nhẹ nhàng: “Các phương án phương Tây về dân
chủ mà trong đó cá nhân chiếm ưu thế đang đe dọa thống lĩnh Malasia.”
Và: “Phương Tây ép buộc chúng tôi theo những ý tưởng của nó. Ở chỗ các
ông thì gia đình không còn có nghĩa là vợ và chồng và con cái của họ
nữa. Đồng tính luyến ái được phép kết hôn, diễu hành trên đường phố.
Người ta chạy truồng đó đây. Chúng tôi không muốn điều đó. Trước sau gì
thì chúng tôi cũng tin vào gia đình, vào sức mạnh của nguồn gốc văn hóa
chúng tôi.”[1]
Sau thời gian đảm nhiệm chức vụ, Lý Quang Diệu đã tạo cho mình một
chức vụ có một không hai, lúc đầu là Senior Minister, rồi sau đó là
Minister Mentor, người ta cũng có thể gọi là Giáo chủ Tóc bạc. Cũng như
Mahathir, ông không phải là một nhà dân chủ. Trong những hồi ký của
mình, ông say sưa với việc Tòa thánh Vatican bổ nhiệm các Hồng y của
mình như thế nào. Và ông đã tổ chức People’s Action Party của mình theo
gương mẫu đó.[2]
Ông làm việc trong một gian phòng khiêm nhường ở góc của một dinh thự
chính phủ từ thời thuộc địa, được canh gác bởi những người lính Gurkha
trong áo đồng phục màu xanh và nón có vành rộng màu xám, ngay giữa một
công viên lớn ở Singapore. Tôi đã gặp ông ấy ở đó hai lần. Là Senior
Minister, ông tiếp khách trong một chiếc áo len đan và thích giảng giải
về mục tiêu lý tưởng của ông ấy cho một chính phủ châu Á: “Đối với một
người Mỹ, có thể đó là được sự tự do không giới hạn để phát triển bản
thân mình. Đối với tôi là một người châu Á, người dẫn một đất nước ra
khỏi nghèo khổ, thì điều đấy có nghĩa là: tạo cho người dân có một căn
hộ thoải mái, lo về một nền y tế tốt và công việc làm, cũng như lo cho
con cái của họ được đào tạo và có một tương lai đàng hoàng.”[3]
Tất cả những phân tích này đều có một hạn chế nặng ký: chúng được đưa
ra bởi những chính khách lãnh đạo thần dân của họ với một bàn tay cứng
rắn. Các “giá trị châu Á” phục vụ họ như một lời biện bạch cho những
cách xử sự độc tài. Cả hai người, Lý ở Singapore và Mahathir ở Malasia,
đều tống khứ những người chỉ trích họ đi bằng cách để cho những người
này – theo một “Luật Nội an” được giữ lại từ thời thực dân Anh – biến
mất ở phía sau song sắt mà không cần đến phán xét của tòa án. Mahathir
loại trừ Phó Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Tài chính của ông ấy, Anwar
Ibrahim, người dấn đến quyền lực, bằng cách ném người cha của sáu đứa
con ấy vào tù với lời buộc tội lạm quyền và đồng tính luyến ái.
Lý người Singapore và đồng nghiệp của ông đã hại các địch thủ chính
trị như luật sư và chính trị gia đối lập Joshua Benjamin Jeyaretnam với
những lời buộc tội làm hại đến thanh danh và yêu cầu bồi thường khổng
lồ. Một nhóm tinh hoa nhỏ điều khiển quốc đảo Singapore, lãnh đạo chính
phủ hiện giờ là một người con trai của Lý, Hiển Long. Vợ của ông ấy một
thời gian dài đã lãnh đạo công ty đầu tư nhà nước Temasek với hơn 100 tỉ
euro.
Thế nhưng cuộc khủng hoảng tài chính thứ nhất đã ập đến vào năm 1997.
Nó bắt đầu ở Thái Lan, nơi chính phủ phải bất lực đứng nhìn những kẻ
đầu cơ tống khứ đi hàng triệu baht, sau khi họ đã đánh cược chống lại
tiền tệ của Thái Lan. Các nhà đầu tư ngoại quốc rút bạc tỉ ra khỏi nước
này. Ngân hàng Trung ương Thái Lan thả nổi tự do tỷ giá hối đoái, cái
cho tới lúc đó được gắn vào dollar, đồng baht rơi xuống đến tận đáy.
Malaysia, Singapore, Indonesia, Hàn Quốc bị rơi vào dòng xoáy. Ở
Bangkok, tôi đã tận mắt nhìn thấy các nhân viên ngân hàng từng giàu sụ
đã tắt đèn và máy điều hòa nhiệt độ và kéo cửa chớp ngân hàng của họ
xuống vĩnh viễn như thế nào. Trong thủ đô Thái Lan, cần cẩu đứng yên,
doanh nhân còn bán cả trang sức của họ, chiếc Porsche của họ và rượu
vang Pháp đắt tiền của họ trên cái được gọi là “Chợ trời của những người
giàu trước kia”. Ở Seol, người dân hiến kim cương để giúp nhà nước
thoát khỏi khó khăn, ở Indonesia hàng triệu người bất thình lình không
biết được là mình lấy bữa ăn kế tiếp ở đâu ra. Hàng nghìn trẻ em bỏ học
vì các em phải đi tìm cái gì đấy để ăn.
IMF ban hành những chương trình tiết kiệm nghiêm ngặt. Trong lúc đó
có một cảnh gây ấn tượng mà nhiều người châu Á cho tới ngày nay vẫn còn
cảm nhận như là một sỉ nhục nặng nề: Sau một thời gian dài chống lại,
Tổng thống Suharto ký kết hợp đồng vay tiền với IMF. Đứng bên cạnh ông,
khoanh tay bình thản và hài lòng nhìn xuống, là sếp IMF thời đấy Michel
Camdessus. Chẳng bao lâu sau đấy, Suharto bị lật đổ.
Cùng với cuộc khủng hoảng, bài hát ca ngợi các giá trị “châu Á” cũng
câm lặng đi. “Cũng như tiền tệ, chúng đã bị giảm giá”, nhà khoa học
người Singapore Simon Tay phán xét.[4]
Nhưng cho tới ngày hôm nay, chính trị gia và khoa học gia vẫn giải
thích cách thức hoạt động quốc gia của họ với ảnh hưởng to lớn của những
đặc tính châu Á. Han Sung Joo, trước đây là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của
Hàn Quốc, người đã nghiên cứu tỉ mỉ về các nền tảng của sự thành công,
tin rằng những đặc tính như vậy trước sau vẫn ăn sâu không chỉ ở Trung
Quốc, Malasia hay Singapore, mà cũng cả trong nhiều quốc gia châu Á
khác. Han hiểu điều đấy như “một nhà nước gia trưởng, một chính phủ điều
khiển, doanh nghiệp tư nhân” cũng như sự nhấn mạnh đến “trật tự xã hội,
hài hòa và kỷ luật” – ngược với “minh bạch, có thể đoán trước được, khả
năng cạnh tranh toàn cầu và trọng lượng của sáng kiến tư nhân”, những
cái nói chung là được mang vào trong mối quan hệ với những giá trị
phương Tây.
Chúng ta hãy nhìn Nhật Bản: đất nước này là một xã hội châu Á mà
trong đó tìm kiếm một đồng thuận có ảnh hưởng đến cách cư xử mạnh hơn là
đương đầu công khai và phê bình. Sau thảm họa thiên nhiên và nguyên tử
2011, theo cách nhìn của giới tinh hoa Nhật, thủ tướng Naoto Kan đã bước
ra khỏi vai trò của mình khi ông lớn tiếng phê bình các giám đốc bất
lực của tập đoàn năng lượng Tepco vì họ đã không kiểm soát được các lò
phản ứng của họ ở nhà máy điện nguyên tử Fukushima.[5]
Thành công kinh tế trước đây của Nhật Bản, Han nói, nằm trong hoài
bão của giới tinh hoa nước này, muốn trở thành một đất nước giàu có và
hùng mạnh về quân sự.
Ở Hàn Quốc, các ý tưởng truyền thống và đạo Khổng hợp thành một hệ
thống giá trị, cái đặt trọng tâm lên đào tạo, kỷ luật lao động, định
hướng đến kết quả và vai trò dẫn đầu của chính phủ. Thêm vào đó, vì xung
đột với Triều Tiên, là một “văn hóa quân đội”, và sự pha trộn này đã
dẫn đến một “sự lệ thuộc quá mức vào quan hệ cá nhân, đến một hệ thống
của những doanh nghiệp gia đình, đến câu kết giữa chính phủ và kinh
doanh, thiếu minh bạch … và quan liêu đầy dẫy”.
Sự vươn lên của châu Á có thật sự là nhờ vào một mô hình đặc biệt hay
không, một mô hình mà cần phải tìm chiếc chìa khóa cho sự thành công
của nó ở xa những cái được gọi là giá trị của phương Tây?
________________________
[1] “Wir umarmen den Teufel nicht” ["Chúng tôi không ôm lấy quỷ"], Der Spiegel 44/1977
[2] Lý Quang Diệu: The Singapore Story: Memoirs of Lee Kuan Yew”, Prentice Hall, Singapore, 1999
[3] “Ein schrecklicher Taifun” ["Một cơn bão đáng sợ"], Der Spiegel 15/1998
[4] Simon S. C. Tay: “Asia Alone”, John Wiley & Sons, Singapore 2010
[5] Xem Wieland Wagner: “Der Zornige” ["Người giận dữ"], Der Spiegel 14/2011