Lê Nguyên Hồng
Trước hết tôi – một người trong đại khối nhân dân, quốc tịch
Việt Nam, số chứng minh nhân dân 060540498 do công an Yên Bái cấp ngày
24/5/2005 – xin có lời chào đích danh ông đại tá tiến sĩ Nguyễn Văn
Quang. Cũng xin lỗi trước vì tôi đã mạo muội dịch hai từ TS của ông
thành “tiến sĩ”, nếu đúng thì tôi xin chúc mừng ông là một người đã được
“xóa mù tiến sĩ” như ai đó đã từng nói một cách hài hước.
Thưa ông tiến sĩ đại tá Quân đội. Bài báo có tựa đề “Đừng nhầm lẫn từ
“nhân dân” trong hiến pháp” của ông đăng trên Báo Quân Đội Nhân Dân chủ
nhật, ngày 23/10/2011 vốn không nêu đích danh một ai để ông chỉ trích.
Tôi chỉ thấy ông gọi những trí thức, luật gia nào đó là mượn danh “nhân
dân” để bóp méo, xuyên tạc các bản hiến pháp của Việt Nam (Miền Bắc
trước đây và toàn quốc sau ngày 30/4/1975) như ông viết là: “Xuyên tạc
tính đúng đắn của những văn bản đó”. Vì tôi là một trí thức và cũng đã
có một số bài viết bình luận, nhận định về các bản Hiến pháp của Việt
Nam, đăng trên một số trang Web và trên blog cá nhân của tôi. Nên tôi
quyết định phản hồi lại bài báo của ông.
Mở đầu bài viết của ông, ông viết: “các thế lực thù địch mượn
danh “nhân dân” để kích động chính nhân dân chống lại những chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước cùng ý chí, nguyện vọng của toàn dân
trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2001”. Tôi đồng ý với ông
về việc ông xác định chuyện sửa đổi, bổ xung hiến pháp là chủ trương
của Đảng và Nhà nước. Nhưng ý chí và nguyện vọng của người dân (ông viết
là “toàn dân”) được thể hiện như thế nào? Thông qua bỏ phiếu, trưng cầu
dân ý, hay hình thức nào mà ông nói là ý chí và nguyện vọng của toàn
dân? Tôi chỉ thấy báo chí tuyên truyền đây là chủ trương lớn này nọ của
Đảng và Nhà nước, chứ tuyệt nhiên chưa nghe đến chuyện lấy ý kiến nhân
dân như thế nào, và làm thế nào để lấy được ý kiến “toàn dân” nếu không
thông qua hình thức trưng cầu dân ý. Vậy xin được phép kết luận là ông
nói sai sự thật ngay từ phần mở đầu bài viết.
Xin lấy ví dụ như việc sửa đổi hiến pháp năm 1996 ở Nam Phi và ở Thái
Lan năm 1997. Ở Nam Phi, trước hết Quốc Hội giao cho các hội luật gia
và các văn phòng luật trên toàn quốc soạn thảo dự thảo Hiến Pháp độc
lập. Tòa án Hiến Pháp phải thành lập một Ủy Ban Lập Hiến của Quốc Hội.
Ủy Ban này đã tiếp nhận tới 4 000 bản dự thảo hiến pháp khác nhau và có
tới 250 000 bản kiến nghị sửa đổi hiến pháp, để Ủy Ban Lập Hiến của Quốc
Hội xem xét, đánh giá, và chọn lọc theo những tiêu chí riêng. Sau khi
bản hiến pháp do Ủy Ban Lập Hiến định hình, được đưa ra trưng cầu dân ý
lần 2 (trước đó 1 năm đã có cuộc trưng cầu dân ý lần1, thông qua việc
người dân tự do gửi kiến nghị đề nghị sửa đổi các điều khoản A, B, C cụ
thể của hiến pháp), và nó chỉ được áp dụng khi có sự đồng thuận của toàn
dân.
Tại Thái Lan, việc sửa đổi hiến pháp có hai giai đoạn, ban đầu Quốc
Hội cũng tiếp nhận hàng ngàn các bản dự thảo hiến pháp của các luật gia.
Sau đó họ công khai lấy ý kiến của dân bằng cách tổ chức các cuộc hội
thảo từ cấp thôn làng đến cấp tỉnh thành. Để đảm bảo việc tiếp nhận ý
kiến toàn dân một cách minh bạch, Quốc Hội Thái Lan lúc đó đã yêu cầu
những nhân viên tiếp nhận kiến nghị, photo toàn bộ văn bản của từng cá
nhân, tổ chức gửi đến, sau đó trao lại bản chính và biên nhận cho chủ
nhân. Việc làm đó đảm bảo rằng người dân sẽ có quyền kiện Quốc Hội, nếu ý
kiến của họ có nhiều người ủng hộ mà không được đưa vào hiến pháp.
Sơ qua về 2 ví dụ trên từ việc sửa đổi hiến pháp của một nước Châu
Phi mới bước ra từ nạn Apacthai, và một nước Đông Nam Á sống chủ yếu
bằng nghề nông. Vậy thưa ông đại tá tiến sĩ Nguyễn Văn Quang, chuyện
chuẩn bị sửa đổi hiến pháp lần này ở Việt Nam có phải là nguyện vọng của
toàn dân hay không? Chắc chắn là chưa thể nói rằng có. Theo ý kiến cá
nhân tôi thì bản Hiến Pháp năm 1992 hiện nay ta đang dùng là không cần
phải sửa đổi bất cứ điều gì cả. Chỉ cần chúng ta (nhà nước và nhân dân)
hiểu cho đúng ngữ nghĩa của nó bằng cách có một Tòa Án Hiến Pháp và một
hệ thống luật minh bạch, khoa học hướng dẫn thực thi hiến pháp là đủ.
Ngay cả Điều 4 – điều mà mọi người ngộ nhận cho rằng nó khẳng định vị
thế duy nhất cầm quyền của Đảng Cộng Sản – cũng không phải vậy, nếu
chúng ta có bản văn luật diễn dịch trọn nghĩa của Điều 4 ấy.
Trong bài viết của ông, ông lên án những người “mượn danh nghĩa nhân dân và dân tộc để đối lập nhân dân với nhà nước”.
Câu này đúng một nửa, phần đầu thì rất khó hiểu vì ông không nêu đích
danh ai đã “mượn” danh nhân dân, nhưng theo tôi hiểu thì ông ám chỉ một
số trí thức, luật gia gốc Việt ở hải ngoại đã làm việc này. Thưa ông,
người Việt ở nước ngoài hoàn toàn có quyền có 2 quốc tịch, một của Việt
Nam và một của nước người đó đang thường trú. Ngay cả những cựu quân,
cán, chính, của chế độ Việt Nam Cộng Hòa cũ có quốc tịch Việt Nam (Cộng
Hòa), cũng chưa có ai hay văn bản nào tước đi quyền làm công dân Việt
Nam của họ. Có chăng chỉ là ở một vài nước nhỏ còn có quy định 1 quốc
tịch nên một số ít kiều bào mới phải tạm từ bỏ quốc tịch cũ của mình.
Như vậy các vị trí thức, luật sư, luật gia người Việt ở nước ngoài hoàn
toàn có quyền góp ý vào công việc chính trị, văn hóa xã hội của Việt Nam
một cách hợp pháp.
Ở vế tiếp theo là “để đối lập nhân dân với nhà nước, với hệ thống chính trị và với Đảng ta hiện nay”
là đúng hoàn toàn. Nhà nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa hiện nay không
được dựng nên bằng bất kỳ một cuộc tổng tuyển cử nào. Hay ông và Đảng
Cộng Sản của ông cứ bắt buộc phải cho rằng - dù chỉ là hình thức - nhưng
có bầu cử Quốc Hội, bầu cử Hội đồng Nhân Dân và Quốc Hội chỉ định lập
ra chính phủ, như vậy nếu suy luận là chính phủ do dân gián tiếp bầu ra
thì tôi cũng tạm chấp nhận. Nhưng nhân dân chắc chắn không được bầu cử
Đảng Cộng Sản nào từ năm 1945 đến nay. Trong khi đó Hiến Pháp lại ghi là
đảng lãnh đạo (Điều 4) và tất cả các văn bản chính trị cấp nhà nước đều
ghi là “đảng lãnh đạo”, quả thực tôi dám chắc, chính ông Nguyễn Văn
Quang cũng chưa bao giờ được cầm trên tay lá phiếu để mà đi bầu Đảng
lãnh đạo (Quốc Hội và Hội đồng Nhân Dân đều không có quyền chỉ định nhân
sự Đảng như bổ nhiệm thủ tướng hay Chủ tịch nước). Vậy người dân chúng
tôi có quyền đối lập với tất cả những ai đang chiếm quyền lãnh đạo đất
nước mà họ không được bầu.
“Tạo dựng ý thức chính trị xây dựng một bản hiến pháp theo tinh
thần đa nguyên-cái mà nhân dân ta đã nhận thức rõ và không chấp nhận
ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên” - đó là câu mà ông tiến sĩ đại tá
viết. Xin được hỏi ông, nhân dân ta không chấp nhận ngay từ bản hiến
pháp đầu tiên, vậy họ dùng hình thức nào để “không chấp nhận” như ông
nói?
Nội các chính phủ của ông Hồ Chí Minh và do Quốc Hội khóa 1 ngày
3/11/1946 phê chuẩn, có nhiều trí thức không phải là đảng viên Đảng Lao
Động, như các Bộ trưởng: Bộ Nội Vụ - Huỳnh Thúc Kháng, Bộ Giáo dục -
Nguyễn Văn Huyên, Bộ Giao Thông Công Chính - Trần Đăng Khoa, Bộ Y Tế -
Hoàng Tích Trí, Bộ Tư Pháp - Vũ Đình Hòe, Bộ Canh Nông - Ngô Tấn Nhơn,
Bộ Cứu Tế - Chu Bá Phượng, Bộ Không Bộ - Nguyễn Văn Tố và Bồ Xuân Luật.
Ngày 20/9/1955 - tức là tận 9 năm sau - Chính phủ của ông Hồ Chí Minh
có những thay đổi, nhưng lúc này trong Chính phủ vẫn còn tới gần 10
người ngoài Đảng Lao Động như: Nguyễn Văn Huyên, Phan Anh, Nghiêm Xuân
Yêm, Trần Đăng Khoa vv.., riêng ông Phan Kế Toại được cử làm Phó Thủ
tướng Chính phủ. Lúc đó đã có bản hiến pháp năm 1946, vậy phải chăng ta
nên lên án ông Hồ Chí Minh vì đã không làm theo ý dân, vì theo ông đại
tá Nguyễn Văn Quang nói là nhân dân đã không chấp nhận tinh thần đa
nguyên? Chưa kể đến việc Việt Nam có đa đảng (không kể Miền Nam) gồm
Đảng Lao Động (tiền thân của Đảng Cộng Sản), Đảng Xã Hội, Đảng Dân Chủ,
đến tận năm 1988 thì Đảng Cộng Sản mới bức tử hai đảng kia. Như vậy về
điểm môn Sử của ông đại tá tiến sĩ Nguyễn Văn Quang là điểm liệt đấy
nhé!
Ông đại tá viết câu “Hiến pháp của nhân dân Việt Nam bảo vệ các quyền chính đáng đó của họ”,
tôi cho là đúng (ngoại trừ câu ”Hiến pháp của nhân dân” vì nó chưa
thuộc về nhân dân). Vấn đề ở đây là Hiến pháp viết như vậy nhưng cái
Đảng Cộng Sản đang tự ý lãnh đạo nhân dân khi chưa được nhân dân đồng ý
kia, nó cứ lập lờ không cụ thể hóa thành những bộ luật và các văn bản
luật hướng dẫn nhà nước và nhân dân thực hiện. Tôi lấy ví dụ quyền phúc
quyết của dân, hay quyền biểu tình, đã có từ các bản Hiến pháp năm 1946;
1959; 1980 đến Hiến pháp 1992; nhưng nó không có luật áp dụng, cho nên
có mà lại không.
Sau cùng, ông tiến sĩ đại tá viết: “Quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp, mối quan hệ giữa các quyền đó, việc lập các tổ chức chính trị,
xã hội, đảng đoàn ra sao là do nhân dân Việt Nam, Quốc hội Việt Nam
quyết định”. Rất đúng! Nhưng ông viết thiếu, nếu không viết thêm sẽ
vô nghĩa, vì ông đã không trao cho nhân dân cách thức, phương pháp nào
để mà "quyết định". Cần phải viết thêm một đoạn nữa là: “Bằng con
đường trưng cầu dân ý công khai và minh bach, đồng thời có các hệ thống
văn bản luật và văn bản dưới luật hướng dẫn nhà nước và nhân dân thực
hiện. Tất cả mọi văn bản luật, từ Hiến pháp trở xuống, nếu thông qua
trưng cầu dân ý mà không được nhân dân chấp nhận thì cần phải bị loại bỏ”.
Tóm lại xin thất lễ ông đại tá tiến sĩ Nguyễn Văn Quang, để đưa ra
nhận xét: Ông là người không dũng cảm. Chỉ trích những ý kiến của người
này người kia chung chung không dám nêu tên người cụ thể. Nói chuyện
chính trị quan trọng liên quan đến vận mệnh của cả một quốc gia mà lại
hời hợt, giáo điều, bằng chứng đưa ra trái với sự thật lịch sử. Có vẻ
như người nhầm lẫn là ông đại tá đã xóa mù tiến sĩ Nguyễn Văn Quang chứ
không phải ai khác.
Lê Nguyên Hồng