Diên Vỹ chuyển ngữ
CHƯƠNG 1: CÔNG NHẬN VÀ GIÚP ĐỠ 1950-1953
Những Tiếp xúc Ban đầu giữa Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Trung Quốc
Quan hệ giữa Hồ Chí Minh và Cộng sản Trung Quốc đã có từ đầu thập
niên 1920 khi Hồ còn hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp tại Paris. Chính
tại thủ đô nước Pháp ông đã gặp những nhân vật trong ĐCSTQ như Chu Ân
Lai, Vương Nhược Phi, Tiêu Tam và Lý Phú Xuân. Vào cuối năm 1924, Quốc
tế Cộng sản điều Hồ từ Moscow đến Quảng Châu để phụ giúp Mikhail
Borodin, đại diện cho Đệ tam Quốc tế trong chính quyền cách mạng Trung
Quốc do Quốc Dân Đảng (QDĐ) lãnh đạo. Tại Quảng Châu, Hồ cũng đã tham dự
vào các hoạt động chống thực dân, điều hành một “lớp đào tạo chính trị đặc biệt”
cho thanh niên người Việt. Ông đã mời Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Lý Phú
Xuân và Bành Bái đến nói chuyện trong lớp đào tạo của mình[1]. Sau này
Chu Ân Lai đã kể lại với một nhóm khách người Việt rằng: “Năm 1922,
tôi đã quen biết Hồ Chủ tịch. Vào năm 1925, Hồ Chủ tịch đã đến Quảng
Châu để hỗ trợ cách mạng Trung Quốc. Đây là mối quan hệ máu thịt.”[2]
Hồ đóng vai trò tích cực trong phong trào nổi dậy của nông dân và
công nhân tại Nam Trung Quốc trong giữa thập niên 1920. Trong thời kỳ
tổng đình công chống lại người Anh tại Quảng Đông và Hồng Kông vào tháng
Sáu 1925, Hồ đã phát biểu bằng tiếng Trung tại các cuộc biểu tình, ca
ngợi hành động của họ.[3] Hồ cũng tích cực quan tâm đến Học viện Phong
trào Nông dân do chính quyền Tôn Dật Tiên thành lập tại Quảng Châu như
một guồng máy huy động hậu thuẫn tại các khu vực miền quê ở miền nam
Trung Quốc. Hồ khuyến khích việc Bành Bái tìm cách tổ chức các hoạt động
cách mạng tại Huyện Hải Phong và đóng vai một liên lạc viên giữa chính
quyền Quảng Châu và tổ chức Nông dân Quốc tế (Krestintern) tại
Moscow.[4]
Khi Tưởng Giới Thạch tách khỏi Cộng sản Trung Quốc vào năm 1927 và sự
thay đổi đường hướng tư tưởng của Quốc tế Cộng sản đã buộc Hồ rời Trung
Quốc đi Moscow. Ông quay lại Hồng Kông vào đầu năm 1930 để triệu tập
một cuộc họp nhằm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Không bao lâu sau,
dưới yêu cầu của Quốc tế Cộng sản, tổ chức này đã đổi tên thành Đảng
Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD).[5]
Bị cảnh sát Anh cầm tù tại Hồng Kông vào tháng Sáu 1931, hai năm sau
Hồ được trả tự do và đi Moscow và ở lại đấy trong năm năm để nghiên cứu
những tài liệu do Lenin viết. Vào mùa thu 1938, Hồ đến căn cứ của Mao
tại Diên An và ở lại trong vài tuần. Sau đó ông đi về miền nam đặt các
trạm liên lạc trong các khu vực do Quốc Dân Đảng chiếm đóng và tìm cách
tái lập liên lạc với các phần tử thuộc ĐCSĐD đang hoạt động trong
vùng.[6]
Tháng Năm 1941, Hồ chỉ đạo một hội nghị của ĐCSĐD tại Bắc Pó, một
ngôi làng sát biên giới Việt Nam. Kết quả quan trọng nhất của cuộc họp
này là sự xuất hiện của một mặt trận đoàn kết dân tộc có tên Việt Nam
Độc lập Đồng minh Hội, thường được gọi là Việt Minh. Tổ chức này được
thiết kế để liên kết tất cả các nhóm hoạt động dân tộc vì cuộc đấu tranh
chung vì độc lập quốc gia. Hồ và các đồng sự Cộng sản đóng vai trò lãnh
đạo Việt Minh đã khôn ngoan kêu gọi tinh thần dân tộc của người Việt,
giảm nhẹ quyết tâm vì cách mạng xã hội và ủng hộ một cương lĩnh chính
trị nhấn mạnh tính độc lập dân tộc và những cải cách “dân chủ”.
Tháng Tám 1945, Việt Minh lợi dụng lỗ hổng chính trị khi Nhật đầu hàng
để chiếm giữ chính quyền tại Hà Nội và thành lập nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà.[7]
Trong khi Hồ Chí Minh đang ăn mừng chiến thắng nhất thời, Cộng sản
Trung Quốc đang chuẩn bị khôi phục cuộc nội chiến với QDĐ sau khi đánh
bại Nhật. Các lực lượng quân đội ĐCSTQ nhỏ bé và trang bị nghèo nàn tại
miền nam Trung Quốc đang bị đe doạ nghiêm trọng khi Quân đoàn 46 và 64
của Tưởng Giới Thạch chuyển đến các tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây. Khu uỷ
Quảng Đông quyết định rút Đệ nhất Trung đoàn thuộc Lực lượng Nhân dân
Nam Quảng Đông, đơn vị chủ lực của ĐCSTQ trong khu vực, vào Việt Nam để
tránh QDĐ tấn công. Khu uỷ Quảng Đông đã gửi Pang Zi và Zhu Langqing,
hai cán bộ quen thuộc với Việt Nam, đến Hà Nội để yêu cầu giúp đỡ. Hoàng
Văn Hoan, người đóng vai trò liên lạc với Cộng sản Trung Quốc đã tiếp
đón phái đoàn ĐCSTQ và đồng ý đón nhận Đệ nhất Trung đoàn vào Việt
Nam.[8]
Dẫn đầu bởi Tư lệnh Huang Jingwen và Chính trị viên Tang Caiyou, Đệ
nhất Trung đoàn với số quân ở khoảng 1 nghìn người đã vào Việt Nam vào
tháng Ba 1946. Hồ Chí Minh không những thoả mãn nhu cầu của Trung Quốc
về lương thực và những nhu yếu phẩm khác mà còn cung cấp thuốc men để
chữa các binh lính Trung Quốc đang mắc bệnh sốt rét và kiết lỵ. Để chuẩn
bị chiến tranh chống Pháp khi quốc gia này đang quyết tâm tái lập vị
thế thống trị của mình tại Đông Dương, Hồ đã yêu cầu các đơn vị ĐCSTQ
tại Việt Nam giúp đào tạo binh lính của ông. Để tăng cường mối quan hệ
với Việt Minh, vào tháng Sáu 1946 Phân bộ Đảng uỷ Hồng Kông của ĐCSTQ đã
gửi Chu Nam, phó Phòng Tổ chức của Khu uỷ Quảng Đông đến Hà Nội để đóng
vai trò đại diện liên lạc cho ĐCSTQ. Hoàng Văn Hoan đã yêu cầu Chu
triệu tập cả Đệ nhất Trung đoàn lẫn người gốc Trung Quốc tại Việt Nam
đóng góp vào cuộc chiến tranh chống Pháp. Đặc biệt Hoan muốn ĐCSTQ giúp
quân đội Việt Minh đào tạo các sĩ quan và thiết lập một bộ máy tình
báo.[9]
Sau khi thảo luận với Huang Jingwen, Tang Caiyou và Lin Zhong, bí thư
Uỷ ban Hoạt động Biên giới Lâm thời Quảng Tây-Việt Nam của ĐCSTQ, Chu
Nam thảo ra một kế hoạch giúp đỡ Việt Minh. Theo kế hoạch này, Đệ nhất
Trung đoàn sẽ gửi các sĩ quan đến Trường Lục quân Cao cấp và Trung tâm
Đào tạo Cán bộ Thái Nguyên để làm cố vấn và giảng viên, đến Bộ Quốc
phòng để làm chuyên viên tình báo và đến các đơn vị của lực lượng Việt
Minh để làm huấn luyện viên quân sự hoặc chỉ huy. Đệ nhất Trung đoàn
cũng nhận các sĩ quan Việt Minh vào doanh trại để huấn luyện. Trong việc
vận động người Việt gốc Trung Quốc, kế hoạch yêu cầu Đệ nhất Trung đoàn
và Uỷ ban Hoạt động Biên giới Lâm thời Quảng Tây-Việt Nam của ĐCSTQ gửi
cán bộ đến tỉnh Bắc Giang để thành lập các đơn vị vũ trang Hoa kiều.
Lãnh đạo Việt Minh thông qua kế hoạch trên. Đến tháng Bảy 1947, có hơn
830 sĩ quan và binh lính từ quân đội Việt Minh được đào tạo tại doanh
trại của Đệ nhất Trung đoàn. Một lực lượng tự vệ Hoa kiều với hơn 1
nghìn người đã được thành lập, sau đó được sát nhập vào lực lượng Việt
Minh. Đệ nhất Trung đoàn quay về lại miền nam Trung Quốc để tái lập cơ
sở cách mạng trong khu vực vào tháng Tám 1949 khi lực lượng chủ lực của
Mao tại Bắc Trung Quốc đang đập tan quân đội Tưởng và toàn thắng tiến về
phía nam.[10]
Nhìn chung, mối liên hệ giới hai Đảng Cộng sản Trung Quốc và Việt Nam
từ 1945 đến 1949 vẫn còn hạn chế. Bên cạnh việc tương trợ lẫn nhau giữa
Đệ nhất Trung đoàn và Việt Minh, Phân bộ Hồng Kông đôi khi cũng cung
cấp tiền bạc cho Việt Minh.[11] Không tìm được bằng chứng về việc ĐCSTQ
đã giúp đỡ nhiều về kỹ thuật trong giai đoạn này. Đường dây liên lạc
bằng điện tín trực tiếp giữa trung ương đảng Trung Quốc và Việt Nam cũng
chưa được thiết lập cho đến mùa xuân 1947.[12] Mao vẫn còn bận rộn với
cuộc chiến chống lại Tưởng Giới Thạch tại vùng Mãn Châu và Bắc Trung
Quốc. Tuy nhiên tiếp xúc đầu tiên giữa Đệ nhất Trung đoàn và Việt Minh
rất quan trọng vì nó củng cố mối liên hệ giữa hai phong trào cách mạng
và dọn đường cho sự hợp tác của hai bên trong tương lai.
Nguồn tin tình báo của Hoa Kỳ cho biết vào năm 1946 rằng VNDCCH đã có
tiếp xúc trực tiếp với Liên Sô và căn cứ của Mao và rằng các cố vấn
Liên Sô và Trung Quốc đang huấn luyện binh lính của Hồ Chí Minh.[13] Về
sự dính líu của Trung Quốc, các tình báo viên Hoa Kỳ đã không đúng khi
cho rằng Việt Minh đã tiếp xúc trực tiếp với giới lãnh đạo trung ương
ĐCSTQ vì đã không có mối liên lạc trực tiếp giữa Hồ vào Mao trong thời
kỳ ấy. Các sĩ quan tình báo Hoa Kỳ đã đúng khi chỉ ra rằng các cố vấn
Trung Quốc đang đào tạo quân đội Việt Minh.
Nhưng trong những nguồn tài liệu gần đây của Trung Quốc lại không
thấy đề cập đến sự hiện diện của bất kỳ nhân vật Sô Viết nào trong hàng
ngũ của Việt Minh trong thời gian này. Stalin, cũng như giới lãnh đạo
tại Washington, vẫn nghĩ về Đông Dương theo cái nhìn của châu Âu: việc
ủng hộ Hồ có thể gây nguy hại đến viễn cảnh Đảng Cộng sản Pháp có thể
nắm quyền lực tại Pháp[14]. Hơn nữa, Stalin vẫn không chắc chắn rằng Hồ
có thực là một người Cộng sản thuần thành hay không. Chính sách mặt trận
đoàn kết của vị lãnh đạo Việt Nam đặt vấn đề độc lập dân tộc lên trên
cách mạng xã hội, và việc ông giải thể ĐCSĐD vào năm 1945 đã khiến
Kremlin khó chịu.[15] (Cần lưu ý một điểm thú vị là đường lối mặt trận
đoàn kết tương tự của ĐCSTQ khi thành lập chính quyền mới vào năm 1949
cũng tạo nghi ngại tại Moscow.) Theo học giả Nga Igor Bukharkin, giữa
tháng Chín và tháng Mười 1945, Hồ đã gửi hai bức điện đến Moscow yêu cầu
viện trợ nhưng không được hồi âm.[16] Với việc Stalin đang bận rộn với
những diễn tiến tại châu Âu và sự dè dặt của ông trong việc ủng hộ những
phong trào cách mạng châu Á sau Chiến tranh Thế giới Lần II, rõ ràng là
khó có việc ông đã gửi những cố vấn Sô Viết sang Việt Nam vào năm 1946.
Công nhận Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
Mao tuyên bố thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc vào ngày 1
tháng Mười 1949. Không bao lâu sau, Hồ Chí Minh gửi hai đại diện là Lý
Bích Sơn và Nguyễn Đức Thủy sang Bắc Kinh để xin Trung Quốc việc trợ cho
cuộc đấu tranh chống Pháp.[17] Lúc ấy Mao vẫn còn ở Moscow để đàm phán
hiệp ước liên minh Trung-Sô. Trong thời gian ông vắng mặt ở Bắc Kinh (từ
16 tháng Mười Hai 1949 đến 17 tháng Hai 1950), Lưu Thiếu Kỳ, quyền chủ
tịch Hội đồng Trung ương ĐCSTQ đang điều hành hoạt động hằng ngày của
đảng. Trong khi vẫn tham vấn chặt chẽ với Mao tại Moscow, Lưu chịu trách
nhiệm đích thân điều hành chính sách Đông Dương trong thời gian này.
Trong những năm sau đó, ông thường xuyên tham gia vào việc quản lý các
mối quan hệ với các đảng anh em.
Sau khi nhận được yêu cầu từ đại diện của Hồ, Lưu đã triệu tập một
cuộc họp của bộ chính trị vào ngày 24 tháng Mười Hai 1949 để thảo luận
về vấn đề thiết lập quan hệ ngoại giao với VNDCCH. Phiên họp kết luận
rằng sẽ lợi nhiều hơn hại nếu Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao
với VNDCCH trước khi người Pháp thừa nhận nước CHNDTQ.[18] Bốn ngày sau,
Lưu đại diện cho Uỷ ban Trung ương ĐCSTQ gửi một bức điện đến Hồ Chí
Minh nêu rõ việc Trung Quốc đồng ý thành lập quan hệ ngoại giao với
chính quyền ông. Liên Sô và các quốc gia Đông Âu có thể theo sau, Lưu
nói. Để tạo điều kiện dễ dàng cho việc này, Lưu khuyên Hồ nên đại diên
VNDCCH tuyên bố việc sẵn sàng thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước
khác. Sau khi báo cho Hồ rằng ĐCSTQ sẽ gửi một đại diện đến Việt
Nam,[19] Lưu cũng yêu cầu vị lãnh đạo Việt Minh gửi một đại biểu cao cấp
sang Bắc Kinh để thảo luận các vấn đề liên quan đến cuộc đấu tranh
chung chống chủ nghĩa đế quốc.[20]
La Quí Ba, người đứng đầu Nhóm Cố vấn Chính trị Trung Quốc tại
VNDCCH, 1951-54; Đại sứ Trung Quốc tại VNDCCH, 1954-57 (Tài liệu của Tân
Hoa Xã)
Để dễ bề liên lạc với Cộng sản Việt Nam, vào đầu tháng Giêng 1950 Lưu
đã chọn La Quí Ba làm người đại diện liên lạc của Uỷ ban Trung ương
ĐCSTQ với ĐCSVN. La lúc ấy đang là giám đốc Văn phòng Quân uỷ Trung ương
ĐCSTQ. Lưu chỉ đạo La sang Việt Nam để tiếp xúc với ĐCSĐD, để điều tra
điều kiện hoạt động bân ấy và để báo cáo những phát hiện của mình cho
Bắc Kinh hầu giúp lãnh đạo đảng ra quyết định giúp đỡ Hồ. Lưu dự trù La ở
lại Việt Nam trong ba tháng.[21]
Để giúp La làm quen với phong tục Việt Nam, Lưu đã điều Dương Thượng
Côn, giám đốc Văn phòng Trung ương ĐCSTQ để giới thiệu La với Lý Bích
Sơn và Nguyễn Đức Thủy lúc ấy đang ở Bắc Kinh. Lưu cũng giám sát việc
lựa chọn các thành viên trong nhóm của La, bao gồm một nhân viên tuỳ
tùng, một chuyên viên điện đài, một số thư ký và bảo vệ. Sau khi La đi
Việt Nam vào ngày 16 tháng Giêng, Lưu đã đánh điện cho Uỷ ban Trung ương
ĐCSĐD vào ngày hôm sau, thông báo việc bổ nhiệm La làm đại diện
ĐCSTQ.[22] Trên thực tế La đã ở lại Việt Nam lâu hơn nhiều so với dự
tính của Lưu. Sau này ông đã trở thành người đứng đầu nhóm cố vấn chính
trị Trung Quốc và được bổ nhiệm làm đại sứ Trung Quốc tại VNDCCH năm
1954. Ông giữ chức vụ này cho đến năm 1957.
Mong muốn đạt được tính chính danh và được quốc tế công nhận, vào
ngày 15 tháng Giêng 1950 VNDCCH đã gửi điện đến Bắc Kinh, chính thức yêu
cầu xác lập quan hệ ngoại giao. Hai ngày sau, từ Moscow, Mao đánh điện
cho Lưu Thiếu Kỳ ra lệnh cho ông chuyển lời đồng ý của Trung Quốc trong
việc thiết lập quan hệ chính thức với VNDCCH. Trong cùng bức điện, Mao
đã chỉ thị cho Bộ Ngoại giao Trung Quốc chuyển tiếp yêu cầu thiết lập
quan hệ ngoại giao của VNDCCH đến Liên Sô và các nước Đông Âu.[23]
Tại Moscow, Mao đã báo với Stalin rằng Trung Quốc đang sẵn sàng thừa
nhận VNDCCH và tích cực hỗ trợ cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc
của nhân dân Đông Dương. Ủng hộ kế hoạch của Mao, vị lãnh tụ Sô Viết nói
rằng Trung Quốc nên công nhận VNDCCH trước và Liên Sô sẽ làm theo sau.
Ông cũng nói với Mao rằng Moscow sẵn sàng cung cấp những viện trợ cần
thiết cho Hồ Chí Minh.[24] Stalin chần chừ trong việc thừa nhận VNDCCH
vì sợ làm mất lòng Pháp vì lúc ấy Paris đang phản đối kế hoạch của Hoa
Kỳ trong việc tái vũ trang Tây Đức.[25]
Ngày 18 tháng Giêng, CHNDTQ trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới
công nhận nước VNDCCH. Liên Sô kế bước vào ngày 30 tháng Giêng và không
bao lâu các chính phủ Cộng sản tại Đông Âu và Bắc Hàn cũng làm theo.
Bằng cách đi đầu trong việc thừa nhận VNDCCH và hối thúc những quốc gia
xã hội chủ nghĩa khác làm theo, ĐCSTQ đã có một lựa chọn rõ ràng đối với
cuộc cách mạng đang nổi lên tại Đông Dương và đặt tình đoàn kết với
đảng anh em lên trên khả năng tạo dựng quan hệ ngoại giao với Pháp.[26]
Người Pháp đã giận dữ trước hành động của Moscow và Bắc Kinh. Paris đã tố cáo Liên Sô vi phạm luật quốc tế: “Việt
Nam là một bộ phận của Liên hiệp Pháp, và với chính quyền Bảo Đại mà
Pháp vừa chuyển giao chủ quyền mà nước này có được trong khối Liên hiệp
Pháp.” Cho đến lúc ấy, Pháp vẫn còn do dự có nên noi gương Anh Quốc
thừa nhận nước CHNDTQ hay không. Quan điểm ngả theo hướng này giờ đây
đã bị dẹp bỏ.[27]
Nôn nóng thiết lập mối quan hệ cá nhân với giới lãnh đạo ĐCSTQ, Hồ đã
quyết định đích thân đến thăm Bắc Kinh. Với tinh thần kiên định và bền
bỉ, vị lãnh tụ Việt Minh mảnh khảnh cùng với Trần Đăng Ninh, một uỷ viên
Trung ương ĐCSĐD, đã đi lội rừng suốt mười bảy ngày trước khi vượt qua
địa phận Quảng Tây.[28] Được tin Hồ đến, ngày 26 tháng Giêng Lưu Thiếu
Kỳ đã chỉ đạo các cán bộ đảng tại Vũ Hán tổ chức một cuộc “đón chào ấm cúng” cho vị khách Việt Nam và “cẩn thận đưa ông về Bắc Kinh.”[29]
Sau khi Hồ đến Bắc Kinh vào ngày 30 tháng Giêng, Lưu Thiếu Kỳ và Chu
Đức, phó chủ tịch Chính quyền Nhân dân Trung ương và tổng tư lệnh Quân
đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (QĐGPNDTQ) đã mở tiệc đón chào ông.
Hồ tường thuật tình hình tại Việt Nam và yêu cầu Trung Quốc viện trợ.
Các lãnh đạo Trung Quốc nhanh chóng đồng ý thoả mãn yêu cầu của ông. Sau
đó Lưu đã điện cho Mao để báo cáo về cuộc gặp mặt.[30] Ông nói với Mao
rằng đảng đã thành lập một hội đồng bao gồm Chu Đức, Nhiếp Vinh Trăn,
quyền Tổng Tham mưu QĐGPNDTQ, Lý Duy Hán, giám đốc Bộ Mặt trận Thống
nhất ĐCSTQ và Liệu Thừa Chí, phó chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Hoa kiều
thuộc Chính quyền Nhân dân Trung ương để giải quyết các vấn đề mà Hồ đưa
ra.[31] Từ Moscow, Mao và Chu Ân Lai gửi điện cho Lưu nhờ ông chuyển
lời thăm hỏi đến vị lãnh tụ Việt Nam. Họ chúc mừng Hồ về việc VNDCCH
tham gia “đại gia đình dân chủ phản đế do Liên Sô lãnh đạo” và chúc Hồ sớm thành công trong việc thống nhất đất nước.[32]
Theo lời Hoàng Văn Hoan, đại sứ VNDCCH đầu tiên tại CHNDTQ, Lưu đã
bảo Hồ rằng ông biết Pháp sẽ đình chỉ việc công nhận CHNDTQ vì việc Bắc
Kinh đã đoàn kết với Việt Minh. Trung Quốc sẽ không sợ hãi, Lưu nói
tiếp, vì sau này khi Trung Quốc hùng mạnh lên, người Pháp sẽ phải công
nhận nó.[33] Phát biểu của Lưu rất quan trọng vì nó nói rõ rằng Trung
Quốc sẵn sàng trả giá trong việc ủng hộ Việt Minh và bỏ qua việc được
Pháp công nhận, một bằng chứng biểu lộ cam kết của Bắc Kinh với “chủ nghĩa vô sản quốc tế.”
Nó cũng cho thấy việc người Pháp đã hiểu sai chủ ý của Trung Quốc vì
một số quan chức tại Pháp đã muốn Bắc Kinh từ bỏ trợ giúp cho Hồ để đổi
lại việc được công nhận.
La Quí Ba chụp ảnh chung với các lãnh đạo Cộng sản Việt Nam trước
một nhà khách, 1950. Hàng đầu từ trái sang phải: Võ Nguyên Giáp, Phạm
Văn Đồng, Trường Chinh, La Quí Ba, Tôn Đức Thắng. (Tài liệu của Tân Hoa
Xã)
Chính phủ Trung Quốc đã nhờ đại sứ Liên Sô N.V. Roshchin chuyển đến
Kremlin đề xuất của họ là Liên Sô nên mời Hồ đến thăm Moscow và nói
chuyện trực tiếp với Stalin. Ngày 3 tháng hai Hồ đi Liên Sô. Tại thủ đô
Liên Sô, Stalin đã bảo Hồ rằng trợ giúp Việt Minh chủ yếu là vấn đề của
Trung Quốc. Khi tham dự quốc tiệc vinh danh Mao vào ngày 6 tháng Hai, Hồ
đã nói với Stalin - “nửa thật nửa đùa”, theo lời Ngũ Tư Quyền -
rằng Liên Sô nên ký một hiệp ước với VNDCCH với những điều khoản tương
tự như đã ký với CHNDTQ. Nhưng Stalin đã từ chối. Hồ rời Moscow về Bắc
Kinh cùng với Mao và Chu vào ngày 17 tháng Hai.[34]
Đến Bắc Kinh vào ngày 3 tháng Ba, Hồ trao đổi thêm với lãnh đạo ĐCSTQ
về việc Trung Quốc viện trợ cho VNDCCH. Sau những nhận định về lịch sử
và điều kiện hiện tại của mỗi đảng, Lưu đề nghị rằng để tạo điều kiện
thuận lợi trong việc Trung Quốc hỗ trợ Việt Nam, VNDCCH nên thiết lập
các lãnh sự quán tại Nam Kinh và Côn Minh, thủ phủ của Quảng Tây và Vân
Nam. Hồ chấp thuận lời đề nghị này. Trong thời gian ở lại Bắc Kinh, Hồ
đã chỉ thị cho Hoàng Văn Hoan rằng từ đây về sau trọng tâm đối ngoại của
Việt Nam là Trung Quốc chứ không phải Thái Lan. (từ 1948 đến 1949,
Hoàng Văn Hoan đã hoạt động tổ chức Việt kiều tại Thái ủng hộ cuộc kháng
chiến chống Pháp.) Hồ bổ nhiệm Hoan là đại diện chính thức của đảng và
nhà nước Việt Nam tại Trung Quốc, chỉ thị cho ông bắt đầu công tác chuẩn
bị thiết lập đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh.[35]
La Quí Ba (thứ sáu từ phải sang) và vợ là Lý Hàm Trân (thứ năm từ
trái sang), chụp ảnh với Hồ Chí Minh (thứ tám từ phải sang) và những
quan chức Cộng sản Việt Nam, 1952. (Tài liệu của Tân Hoa Xã)
Đến tháng Tư, Hồ gửi Bắc Kinh một loạt yêu cầu viện trợ bao gồm việc
thành lập một trường quân sự tại Trung Quốc, điều động các cố vấn quân
sự Trung Quốc đến Việt Nam, và cung cấp vũ khí. Lưu Thiếu Kỳ chỉ huy
việc thực hiện công cuộc viện trợ của Bắc Kinh. Ông giúp lựa chọn địa
điểm đặt trường quân sự Việt Nam, nhấn mạnh rằng các chức vụ hiệu trưởng
và các trưởng khoa phải là người Việt. Hồ chấp nhận đề nghị của Lưu, và
trường quân sự sau đấy được thành lập tại Vân Nam.[36]
Để người Việt làm quen với quan điểm quân sự của Mao, Lưu chỉ thị La
Quí Ba giới thiệu cho họ mười nguyên tắc quân sự mà Mao đã tổng kết từ
tháng Mười hai 1947.[37] Các nguyên tắc này bao gồm: (1) tấn công các
lực lượng đơn lẻ và cô lập của địch trước và tấn công các lực lượng mạnh
và tập trung của địch sau; (2) chiếm đóng những thành phố nhỏ hoặc
trung và các khu vực hẻo lánh trước khi chiếm đóng các thành phố lớn
hơn; (3) mục tiêu chính là loại bỏ hiệu lực của địch hơn là chiếm giữ
các thành phố; (4) trong mọi trận đánh, tập trung lực lượng mạnh mẽ
tuyệt đối để xoá sạch quân địch; (5) không được tham chiến mà không
chuẩn bị; (6) nâng cao tinh thần binh lính; (7) tìm cách xoá sạch kẻ thù
lúc chúng đang hành quân; (8) khi tấn công các thành phố, kiên quyết
chiếm giữ toàn bộ các điểm phòng thủ của địch và các thành phố phòng thủ
yếu kém; (9) tịch thu vũ khí và những quân mới tuyển của kẻ thù; (10)
tận dụng thời gian giữa các chiến dịch để nghỉ ngơi, tập luyện và củng
cố lực lượng.[38]
Về yêu cầu của Hồ trong việc gửi các chuyên gia quân sự sang Việt Nam
để làm cố vấn tại các bộ tư lệnh và sư đoàn, và làm sĩ quan chỉ huy ở
cấp trung đoàn và tiểu đoàn, giới lãnh đạo ĐCSTQ trả lời rằng họ sẽ gửi
cố vấn nhưng không gửi sĩ quan chỉ huy. Vào ngày 17 tháng Tư, Quân uỷ
Trung ương ĐCSTQ ra lệnh thành lập Đoàn Cố vấn Quân sự Trung Quốc
(ĐCVQSTQ) bao gồm các cố vấn có khả năng giúp đỡ tại những trung tâm
quân sự và tại ba sư đoàn Việt Minh và tại một trường đào tạo sĩ quan.
Các chuyên gia quân sự sẽ được chọn ra từ các Tập đoàn Dã chiến Quân thứ
Nhì, Tam và Tứ. Nhóm CVQS bao gồm bảy mươi chín cố vấn và phụ tá. Tổng
số người trong ĐCVQSTQ là 281.[39] Việc Việt Nam yêu cầu sĩ quan chỉ huy
Trung Quốc ở cấp trung và tiểu đoàn cho thấy Việt Minh gặp trở ngại rất
lớn trong thành phần chỉ huy và cho thấy họ không có kinh nghiệm và tự
tin để điều khiển các đơn vị lớn hơn mức đại đội.
Để đáp ứng yêu cầu của Hồ về tiếp tế quân sự, Lưu Thiếu Kỳ bảo La Quí Ba rằng ĐCSTQ sẽ “làm hết sức mình để thoả mãn yêu cầu của Việt Nam.”
Đối với nhu cầu về các mặt hàng phi quân sự của Việt Nam như quần áo,
thuốc men và máy móc, Lưu phác thảo một nguyên tắc rất hào phóng: “Nếu
Việt Nam không có hoặc thiếu nguyên liệu để trao đổi, những mặt hàng
này tạm thời được xem như viện trợ quân sự. Trong tương lai khi có thể
trao đổi chung được và khi Việt Nam có thể xoay trở được nguyên liệu,
[chúng ta] sẽ yêu cầu họ trả lại một phần các mặt hàng này. Hiện tại vì
họ không thể trả được, chúng ta sẽ không nhắc đến. Chúng ta nên chú
trọng vào việc giúp đỡ họ đánh bại chủ nghĩa đế quốc một cách hiệu quả
và nên đặt những vấn đề khác xuống hàng thứ yếu.”[40]
Ngày 27 tháng Sáu 1950, Mao, Lưu Thiếu Kỳ và Chu Đức đón tiếp các
thành viên cao cấp của ĐCVQSTQ tại Bắc Kinh. Để chuẩn bị cho họ làm việc
tại Việt Nam, lãnh đạo đảng đã yêu cầu Hồng Thuỷ (Vũ Nguyên Bác)(tướng
Nguyễn Sơn - ND), một tướng người Việt trong QĐGPNDTQ trình bày một khoá
ngắn hạn về địa lý, khí hậu và các diễn biến quân sự tại Việt Nam. Vào
cuối tháng Bảy, ĐCVQSTQ được chính thức thành lập tại Nam Kinh với Tướng
Vi Quốc Thanh làm trưởng đoàn, Mai Gia Sinh và Đặng Dật Phàm làm phó
đoàn. Tại Nam Ninh, Hoàng Văn Hoan đã cung cấp thêm thông tin về tình
hình Việt Nam cho ĐCVQSTQ.[41]
Nôn nóng trong việc chính thức hoá quan hệ ngoại giao, Hồ Chí Minh đề
nghị trao đổi đại sứ với CHNDTQ. Trong một bức điện gửi vị lãnh tụ Việt
Nam vào ngày 7 tháng Bảy 1950, Chu Ân Lai đã từ chối yêu cầu của Hồ
trên cơ sở là chiến sự tiếp diễn tại Việt Nam khiến VNDCCH “bất tiện”
trong việc tiếp nhận đại sứ từ các nước khác. Chu nói rằng sẽ hợp lẽ
hơn khi cứ để La Quí Ba làm đại diện liên lạc cho ĐCSTQ và nán lại việc
thông báo ông làm đại sứ Trung Quốc.[42] Trong lúc ấy, Hồ cũng gửi yêu
cầu tương tự đến Moscow. Trong khi đồng ý đón nhận đại sứ của chính phủ
Hồ, Bộ Ngoại giao Liên Sô xem việc bổ nhiệm một đại sứ Sô Viết tại
VNDCCH thì không phù hợp vì chính phủ Việt Nam vẫn chưa có một địa điểm
văn phòng lâu dài.[43]
Từ tháng Tư đến tháng Chín 1950, Trung Quốc đã gửi cho Việt Minh một
lượng lớn hàng quân sự và phi quân sự bao gồm 14 nghìn súng trường và
súng ngắn, 1.700 súng máy và súng trường không giật, 150 súng cối, 60
đại bác và 300 súng bazooka cùng với đạn dược, thuốc men, dụng cụ liên
lạc, quần áo và 2.800 tấn lương thực.[44] Quân Việt Minh rất thích loại
súng bazooka và súng trường không giật, họ gọi chúng là “khoẻ như
voi.”[45] Quyết định giúp đỡ Việt Minh của Mao vô cùng đặc biệt trong
hoàn cảnh cuộc chiến Triều Tiên bắt buộc ông phải đình chỉ việc đánh
chiếm Đài Loan.
(còn tiếp)