Vũ Tường, Đại học Oregon (University of Oregon)
TM111 chuyển ngữ
TM111 chuyển ngữ
Sự chuyển biến của nhà nước hiện đại
Sự chuyển biến của nhà nước hiện đại ở cả Hàn Quốc và Việt Nam đều bắt đầu từ thời thời thực dân, tuy nhiên sự cai trị thực dân của Nhật tại Hàn Quốc có nhiều thay đổi hơn sự cai trị của thực dân Pháp tại Việt Nam. Nhật dẹp bỏ chế độ quân chủ và lập nên một nền hành chính và nền kinh tế thống nhất tại Hàn Quốc. Ngược lại, người Pháp lại tỏ ra mơ hồ về dự án thuộc địa và chậm chạp trong việc lập nên một thể chế hành chính thống nhất cho Đông Dương. [37] Về vấn đề những con số người cư ngụ và công chức sống trong thuộc địa và làm việc cho chính quyền thuộc địa thì Nhật giữ sự hiện hữu của họ tại Hàn Quốc lớn gấp mười lần so với người Pháp tại Đông Dương. [38] Một tương phản khác nhỏ hơn được thấy trong tỉ lệ cảnh sát so với số dân: lực lượng cảnh sát Nhật được sử dụng là một cảnh sát cho mỗi 100 người dân Hàn, còn tại Việt Nam thì có một cảnh sát cho mỗi 850 người dân bản xứ tại Đông Dương.
Miền Nam Việt Nam được bị xếp vào thể chế thuộc địa toàn phần, tại đây người Pháp được sử dụng trong chính quyền, và người bản xứ được hưởng nhiều quyền lợi giống như người quốc tịch Pháp. Triều đình Việt tiếp tục giữ quyền cai trị về hình thức tại miền Trung (“Annam”) và tại miền Bắc (“Tonkin”) (qua một thống sứ) . Tại cả hai miền Nam và miền Bắc, một viên thống đốc hay thống sứ cai quản hành chính Việt Nam, mặc dù sau thập niên 1900 thì miền Bắc được đặt dưới quyền cai trị trực tiếp của viên toàn quyền Đông dương người Pháp. Khi tách rời miền Nam ra khỏi phần còn lại của Việt Nam, nền cai trị thuộc địa đã phá bỏ quá trình thống nhất đất nước được bắt đầu dưới triều Nguyễn trong những năm 1800 đến 1860.
Cả Pháp và Nhật đều xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại tại thuộc địa, nhưng, một lần nữa, Nhật đã làm nhiều hơn Pháp. Pháp xây đường sắt xuyên Đông dương dài 1,550 km, tức là khoảng nửa chiều dài hệ thống đường sắt xây tại Hàn Quốc cho đến năm 1945. Hệ thống đường xe hơi tại Hàn Quốc cũng nhiều gấp đôi hệ thống tại Đông Dương. Ngoài ra, Nhật thúc đẩy kỹ nghệ hóa và đô thị hóa tại Hàn Quốc, còn Pháp thì không. Sản xuất công nghệ (gồm cả khai mỏ và khai thác gỗ) chiếm 40% tổng sản lượng Hàn Quốc đầu thập niên 1940, trong khi đó tỉ lệ này tại Đông Dương là 20% năm 1937. [39] Hơn 13% dân số Hàn sống tại thành phố (trên 20 nghìn dân), giai cấp công nhân gần 1.8 triệu người, gấp 10 lần con số tại Đông Dương. [40] Đến năm 1937 thì có 2,300 xưởng công nghệ do người người Hàn quản trị, trong đó có 160 xưởng thu dụng hơn 50 công nhân. Như vậy chính sách của Nhật tạo ra một tầng lớp doanh nhân đã đóng góp cho sự công nghiệp hóa hậu chiến tranh tại Nam Hàn. Ngược lại, sự đóng góp đáng kể nhất của người Pháp không nằm ở công nghệ mà là ở nông nghiệp. Người Pháp xây dựng 2,600 km kênh đào qua những đầm lầy ở miền Nam, nâng diện tích canh tác lúa lên gấp 4 lần, nâng sản lượng lúa gạo lên gấp 10 lần, và nâng số gạo xuất cảng lên gấp 5 lần từ năm 1880 đến 1937. [41] Chính sách của Pháp tạo nên một tầng lớp điền chủ và trung lưu to lớn tại miền Nam (nhiều người trong số đó là người Việt gốc Hoa), và đã đóng góp vào sự phát triển thương mại và chủ nghĩa tư bản tại miền Nam Việt Nam trong những năm 1954 đến 1975 (và ngày nay).
Nền chính trị nhà nước lập ra từ cuối năm 1945 đến 1950 có vẻ thích hợp cho việc xây dựng một nhà nước tại Hàn Quốc vững mạnh hơn tại Việt Nam. [42] Đặc thù nhất là tầng lớp ưu tú người Hàn bị chia rẽ thành hai nhóm và được lãnh đạo bởi những người cực đoan (Rhee Syngman và Kim Hsung). Lực lượng Hoa Kỳ đóng quân tại Hàn Quốc hợp tác với giới cảnh sát Hàn được Nhật huấn luyện thực hiện nhiều cuộc trấn áp những người cộng sản tại Nam Hàn và thoạt đầu đã giúp cho chính quyền thống nhất lại. Ngược lại, những tầng lớp ưu tú người Việt hợp tác với nhau cuối năm 1945 để lập nên một phong trào quốc gia giành độc lập. Sự thoả hiệp này tạo nên một nhà nước yếu với sự lãnh đạo bị chia rẽ. Tuy nhiên, với sự phát động của đấu tranh giai cấp năm 1953 và việc dựng nên chế độ Mác Lê tại miền Bắc Việt Nam sau 1954, quốc gia này nhanh chóng qua mặt Nam Hàn trong công việc xây dựng nhà nước.
Tại nơi khác tôi có chỉ ra rằng tổng thống Rhee (1948-1960) đã dựng nên một nhà nước chống cộng hữu hiệu bằng lực lượng cảnh sát cho người Nhật đào tạo. [43] Có báo cáo là những nhà đối lập nổi tiếng như Kim Ku và Yo Unhyong đã bị ông cho điệp viên thủ tiêu. Điều luật an ninh quốc gia ban hành năm 1948 (và vẫn hiệu lực cho đến ngày nay) được viết ra để “cấm tất cả những hoạt động nhằm vào lật đổ nhà nước và tước bỏ sở hữu tư nhân” và “bắt giữ để phòng vệ” những ai bị nghi ngờ là “nguy hiểm và có những tư tưởng không đúng đắn.” [44] Chỉ trong năm 1949 thôi đã có gần 120 nghìn người bị bắt giữ, và 123 nhóm xã hội bị giải tán chỉ từ tháng 9 đến tháng 10. [45] Rhee thực hiện chương trình Podo Yonmaeng năm 1948, đăng ký và theo dõi 300 nghìn người từng là cộng sản và gia đình của họ. [46] Trong chiến tranh Hàn Quốc, chính quyền Nam Hàn bỏ tù và xử tử hàng vạn người cộng sản thực thụ hay bị tình nghi là cộng sản, trong khi đó lực lượng Kim Ilsung cũng làm như vậy đối với người chống cộng. Sự trấn áp những người cộng sản từ rất sớm và có hệ thống đã giúp thống nhất nhà nước Nam Hàn. Việc những lực lượng miền Bắc giết chết những người Nam Hàn và phá hoại miền Nam đã tạo nên những tình cảm chống cộng trong xã hội Nam Hàn.
Sự độc tài của quân đội dưới thời Park Chung Hee (1961-1979) đã mở rộng sự theo dõi dân chúng qua những biện pháp như đăng ký người cư ngụ và những hội đoàn quần chúng (Moon 2005, 30-45). [47] Nhà trường dạy ý thức chống cộng trong một số lớp. Dân chúng được phát động gia nhập vào những lớp huấn luyện bảo vệ dân sự trong những năm cuối thập niên 1970. Tất cả trai tráng bị bắt buộc phải phục vụ trong quân đội, đó là điều kiện để xin việc làm. Chế độ giữ quyền kiểm soát chặt chẽ giới lao động và những tổ chức lao động trong thời Yushin khoảng htập niên 1970 (Ogle 1990, 50-62). Khi cần thiết thì quân đội dựa vào lực lượng của mình để trấn áp mọi phản kháng, giống như cuộc thảm sát Kwangju năm 1980.
Trở lại phía Việt Nam, không có nghi vấn gì rằng lực lượng quốc gia, dù bắt đầu từ dưới đáy đi lên hay phát động từ trên đỉnh xuống, đều đóng góp vào sự thành công của cộng sản Việt Nam trong việc xây dựng một nhà nước mạnh mẽ. Sự lãnh đạo trong cuộc chiến tranh giành độc lập từ người Pháp đã biến những người cộng sản Việt Nam thành gần gũi mật thiết với tổ quốc trong mắt nhiều dân Việt. Việc Hoa Kỳ bỏ bom miền Bắc và sự có mặt của quân đội Mỹ tại Nam Việt Nam khiến nhiều người Việt tin rằng đất nước mình bị ngoại bang xâm lấn. Điều này giúp những người cộng sản chiếm lòng dân và huy động được hỗ trợ của dân chúng cho chính sách của họ. Tuy nhiên tôi cho một điều nữa không kém quan trọng nhưng thường bị bỏ qua là những người cộng sản Việt Nam biết cách sử dụng bạo lực công khai, toàn diện, và có hệ thống, biết ép buộc có hệ thống và huấn luyện giáo điều toàn diện để tạo nên sự tuân thủ và trung thành với nhà nước.
Mặc dù nổi tiếng (về bạo lực) nhưng Nam Hàn theo chủ nghĩa tư bản vẫn không phải là đối thủ của nước Việt Nam cộng sản khi bàn đến bạo lực, o ép, và kiểm soát. Đối với những người cộng sản Việt trang bị bằng lý thuyết đấu tranh giai cấp, kẻ thù được định nghĩa là toàn bộ tấng lớp xã hội, không phải một số nhóm đặc thù hay cá nhân nào. Như tổng bí thư Trường Chinh đã giải thích năm 1948, kẻ thù của cách mạng Việt Nam gồm có “những địa chủ phong kiến phản động và giới tư sản mại bản phục vụ chủ nghĩa đế quốc, và những kẻ phản bội khác bất kể thành phần xuất thân.” [48] Trong khi nông dân, tiểu tư sản thành thị, trí thức, “tư sản ái quốc” và “những nhân vật và địa chủ tiến bộ” được xem là đồng minh của cách mạng vào lúc đó, ông vẫn cảnh báo trước rằng “khi cách mạng tạo được thêm nhiều bước tiến nữa thì thành phần của kẻ thù và đồng minh sẽ thay đổi, và chúng ta sẽ phải thay đổi quan hệ với họ.” Những lời nói của Trường Chinh không phải là lời nói suông. Đêm trước ngày phát động chiến dịch giảm tô năm 1953, những người lãnh đạo cộng sản ban hành một nghị định cho phép xử tử địa chủ theo tỉ lệ một địa chủ mỗi nghìn người dân. [49] Không chỉ những đối thủ chính trị mà một số phần trăm dân chúng do chủ thuyết cộng sản định nghĩa đã được chọn sẵn để bị tiêu diệt.
Việc thi hành bạo lực có hệ thống trong chiến dịch cải cách ruộng đất những năm 1953-1956 không những tiêu diệt cơ bản xã hội của thành phần có tiềm năng chống đối nhà nước, mà còn đóng góp đặc biệt vào việc xây dựng nhà nước theo những chuỗi các bước. Bước đầu tiên là phát động một chiến dịch tập hợp đám đông để tố cáo và xử những kẻ thù đã được định nghĩa sẵn. Bước này bao gồm những bước nhỏ liên quan đến toàn bộ hệ thống hành chính của nhà nước. Một là tổ chức hội nông dân hành động thay Đảng để tập hợp sự tham gia của quần chúng. Một bước song song nữa là đề ra nội dung để bạo lực xảy ra với sự tham gia nhiệt tình và trực tiếp, hay ít nhất là với sự đồng tình của quần chúng. Nội dung này được tạo ra bằng tuyên truyền cao độ và nhắm vào hợp pháp hóa bạo lực quần chúng chống lại kẻ thù. Qua từng tổ cán bộ được phân công về ở nhà nông dân, và qua hệ thống loa phường và “tổ đọc báo”, “những tội ác dữ dội” của kẻ thù được kể đi kể lại với những chi tiết tượng hình, làm cho người ta trở nên vô cảm và chuẩn bị cho họ tham gia vào bạo lực sắp xảy ra.
Sau khi người dân đã được phát động đến mức, bước kế tiếp là đạo diễn những màn khủng bố trước công chúng, qua đó những hành động tố giác và xử tội đối với kẻ thù bị nhắm tới sẽ diễn ra, thường do những hàng xóm, họ hàng thân thuộc, và bạn bè đã được dỗ dành hay ép buộc làm những việc đó. Bước lớn thứ ba là phân chia phần thưởng cho những người hưởng ứng và xây dựng cấu trúc mới cho quyền lực tại thôn quê. Những người hăng hái tham gia vào bạo lực thì được tưởng thưởng bằng vật chất như đất đai và địa vị trong nền hành chánh mới, trong lực lượng quân sự hay an ninh, và trong những tổ chức quần chúng. (Ngược lại, gia đình của những kẻ thù đã bị xử thì sẽ bị nhà nước kềm chế suốt đời theo hồ sơ lý lịch cá nhân). Bước này rất quan trọng để xây dựng nhà nước vì nó tạo ra những tổ chức quần chúng phụ thuộc và tạo thêm một lớp kiểm soát trường kỳ nữa của nhà nước đối với dân chúng địa phương.
Những ép buộc không lộ liễu và theo dõi tại Việt Nam cộng sản cũng toàn diện và có hệ thống hơn tại Nam Hàn. Quan trọng nhất trong vùng thành thị là những tổ dân phố, công an khu vực được giao nhiệm vụ theo dõi một số gia đình, và chế độ hộ khẩu. Trong những năm 1950 Việt Nam dựng nên chế độ hộ khẩu theo mô hình hoku của Trung Quốc mang tính o ép hơn chế độ đăng ký cư ngụ của Hàn Quốc. Chế độ này được thực hiện cùng với chế độ khẩu phần và việc đuổi một số thành phần ra khỏi thành thị, nó gìn giữ sự theo dõi của công an địa phương và kiểm soát sự di chuyển của người dân từ thôn quê ra thành thị và di chuyển nội trong thành phố. Nó buộc chặt người dân vào nơi sinh trưởng, để nhà nước có thể theo dõi họ và gia đình họ tộc của họ. Chính sách này đưọc dùng làm công cụ để tưởng thưởng thành phần trung thành (những người này được phép giữ hộ khẩu và sổ mua lương thực tại thành phố) và kỷ luật những thành phần không trung thành (những người này bị đuổi ra sống tại vùng thôn quê đến mãn đời).
Nhà nước cộng sản không những giữ một nền độc tài chính trị mà còn cố gắng biến hầu hết người dân Việt thành nhân viên nhà nước lệ thuộc vào nhà nước đế có việc làm, thức ăn, và những nhu yếu phẩm khác. Cùng với sự quốc hữu hóa công nghệ vào năm 1958, Bắc Việt phát động hợp tác hóa nộng nghiệp (bắt buộc) và ra cấm đoán buôn bán tư nhân. Công việc làm trong ngành sản xất tư nhân trở nên khan hiếm, và hầu hết mọi người phải kiếm sống bằng cách làm việc trong một đơn vị nhà nước nào đó. Dĩ nhiên là chợ đen về lúa gạo, tem phiếu lương thực, những hàng công nghệ khan hiếm, v.v. vẫn xảy ra sôi nổi, và nó giúp cho những người không làm vệc cho nhà nước có thể sống tạm bên lề xã hội. Nói chung, thì mọi người nhờ vào nhà nước để sống và có động cơ mạnh mẽ để tuân phục nhà nước.
Mặc dù những hợp tác xã nông thôn tương đối nhỏ và không đóng góp gì nhiều cho nền kinh tế Việt Nam, nhưng nó đóng một vai trò quan trọng trong việc theo dõi và kiếm soát. [50] Đúng vậy, hợp tác xã đóng góp chính xác, tuy bất ngờ, trong chiến thắng của Bắc Việt trong chiến tranh. Các hợp tác xã làm việc sát cánh với chính quyền địa phương và hội đồng nghĩa vụ quân sự, nắm hồ sơ những thanh niên trong từng gia đình, và chuẩn bị cho họ trong vòng hai năm trước họ đến tuổi đi lính. [51] Các hợp tác xã làm cho thanh niên không thể nào trốn tránh nghĩa vụ quân sự được, tuy nhiên nó cũng bảo đảm rằng gia đình họ sẽ được chiếu cố đến khi họ phục vụ đất nước. Một khẩu hiệu quen thuộc thời ấy cho thấy vai trò chính trị chủ yếu của hợp tác xã: “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Mặc dù hợp tác xã không làm cho mọi người hăng hái lao động phục vụ chủ nghĩa xã hội, nhưng nó khiến các thôn làng vâng phục giao nộp cho nhà nước cộng sản những trai tráng cần thiết để thực hiện chiến tranh (Cộng sản Việt Nam mất khoảng một triệu lính trong cuộc nội chiến từ 1959 đến 1975 trong tổng số dân số 20 triệu người).
Cộng sản Việt Nam không những đặt kiểm soát gắt gao về mặt chính trị và đời sống nhân dân mà cả về lĩnh vực văn hóa. Đặc biệt, Đảng cộng sản đòi hỏi văn hóa thuần phục toàn diện nền chính trị và các giá trị thuộc tầng lớp lao động. Đầu tiên Đảng cộng sản thi hành phương pháp chỉnh huấn (cheng feng) kiểu Mao (bắt buộc tự phê trong nhóm) với nhiều thành công. [52] Những tổ chức do nhà nước cầm đầu sau đó được thành lập để theo dõi và vận động nhà văn, nghệ sĩ, học giả, và những nhà chuyên môn khác. Những người viết văn nào có bài hơi nghi ngờ những giá trị xã hội chủ nghĩa hay chính sách của Đảng đều bị qui phạt nhanh chóng và tàn nhẫn. Những phiên tòa xử diễn cho công chúng trong đó những nhà bất đồng chính kiến bị quở phạt trước công chúng và bị láng giềng cùng đồng nghiệp bêu rếu xảy ra rất thường xuyên (và vẫn còn thỉnh thoảng xảy ra ngày hôm nay). Những nhà bất đồng phải đối diện với nhiều hình thức xử tội, chỉ phải chưa bị tù mà thôi, như bị cô lập về mặt chính trị và xã hội, bị từ chối không có sổ lương thực, bị cấm xuất bản trọn đời, gia đình và bạn bè bị nhũng nhiểu, và bị đầy về vùng thôn quê.
Đến khoảng giữa thập niên 1950 thì chính quyền chuyển sang quốc hữu hóa báo chí và truyền thông tư nhân tại miền Bắc Việt Nam (Ngày nay Việt Nam vẫn không cho phép báo chí và xuất bản tư nhân hoạt động). Các phương tiện truyền thông được tổ chức như là một phần của nền hành chính nhà nước và được lãnh đạo bởi các tổ chức Đảng. Người dân không những chỉ được đọc mà còn phải nghe những gì nhà nước muốn họ nghe. Đến năm 1957, có 38 hệ thống phát thanh công cộng được thành lập để bao quản tất cả các thành phố và những vùng thôn quê lân cận. Một quyết nghị của Đảng được ban hành bởi ban bí thư năm 1959 ra lệnh mở rộng hệ thống này “lan ra thôn làng… để sản xuất những máy thu thanh có thể bắt sóng của chúng ta”. [53] Hệ thống loa phương thường phát thanh mỗi giờ và phát thanh chương trình hằng ngày đến mỗi hộ gia đình trong vùng phủ sóng của nó, dù người ta có muốn nghe hay không cũng vậy.
Cuối cùng, nền giáo dục thường để phục vụ mục đích khai sáng, nhưng tại Việt Nam cộng sản (giống như Nam Hàn chống cộng nhưng ở mức độ ít hơn) thì giáo dục trước tiên phải là tuyên huấn. Chúng ta đã thấy trước đây rằng nhà trường Việt Nam trở thành nơi đào tạo học sinh thành những anh hùng cách mạng và “những con người mới xã hội chủ nghĩa” ngay từ khi các em còn nhỏ tuổi. Chính quyền không những cấm trường tư và sách giáo khoa tư, mà còn lập ra những chi bộ đảng cộng sản tại mỗi trường từ tiểu học đến đại học để kiểm soát thành phần cán bộ giảng dạy và học sinh.
Nói tóm lại, trong tất cả các lĩnh vực từ chính trị đến kinh tế đến văn hóa, nhà nưóc cộng sản Bắc Việt xếp ngang tầm với Bắc Hàn, và hơn hẳn Nam Hàn, trong vấn đề thống trị xã hội. Sau khi thống nhất, lãnh đạo cộng sản Việt Nam tìm cách áp đặt toàn bộ chế độ kinh tế xã hội Stalin nít - Mao ít vào bên thua cuộc miền Nam mặc dù gặp phải chống đối mãnh liệt bởi người miền Nam. Mãi cho đến thời Gorbachev và sau đó là sự sụp đổ của khối Xô Viết cuối thập niên 1980 thì Hà nội mới bỏ chế độ đó. Kết quả của cải cách thị trường trong hai thập niên vừa qua là sự thống trị của nhà nước trong xã hội đã yếu đi nhiều. Tuy nhiên, ngày nay con rồng biển Việt Nam vẫn còn quyền năng hơn đối quyền của nó tại Nam Hàn, ngay cả so với những ngày vàng son của chính quyền quân sự độc tài Nam Hàn. Mặc dù trong tiêu chuẩn đánh giá của thế giới thứ ba thì những nhà lãnh đạo Nam Hàn được xem là cực đoan, nhưng những nhà lãnh đạo từ Rhee đến Park đều phải được bầu lại thường xuyên (Park đã hai lần thắng cử với tỉ lệ trên đối thủ rất nhỏ). Làm đồng minh với Hoa Kỳ buộc họ phải chấp nhận một số quyền tự do tôn giáo. Báo chí phần lớn phải được là báo chí tư nhân và tương đối được tự do cuối thập niên 1950 và thập niên đầu khi tổng thống Park nắm quyền. [54] Nhà nước hướng dẫn nhưng không kiểm soát kinh tế, và tăng trưởng kinh tế nhanh chóng giúp phát triển sự hình thành của xã hội dân sự. Về mặt kinh tế thì phương cách toàn trị tại (Bắc) Việt Nam và Bắc Hàn làm thui chột phát triển về lâu về dài, và cả hai nước đều thất bại thảm hại. Tuy nhiên cả hai nhà nước đều đã vượt qua nhiều khủng hoảng, trong khi đó nhà nước Nam Hàn bắt buộc phải từ bỏ quyền kiểm soát xã hội sau khi dân chủ hóa đất nước.
Kết luận: Những bài học cho Nam Hàn từ sự thống nhất của Việt Nam
Việt Nam và Hàn Quốc đều ở cùng khu vực và đã đi những con đường rất giống nhau từ lịch sử cổ xưa cho đến thời hiện đại ngày nay: đều thành lập nền độc lập trong thế giới bị thống trị bởi Trung Quốc; đều là nạn nhân của chủ nghĩa thuộc địa, và đều bị chia cắt đất nước. Tuy nhiên nhìn gần hơn thì ta thấy có những bước tách rời quan trọng. Sự khác biệt rõ ràng nhất là Việt Nam bước ra khỏi chiến tranh lạnh là một nước thống nhất, còn Hàn Quốc vẫn bị chia cắt, nhưng một nửa thì thịnh vượng và dân chủ. Sự trỗi dậy của chủ nghĩa quốc gia gần đây tại Việt Nam có thể làm cho nước này trở thành như Nam Hàn nếu phong trào này có thể đánh bại nhà nước Việt Nam, vốn lại, oái ăm thay, giống như Bắc Hàn về bản chất.
Có bài học nào cho Nam Hàn từ sự thống nhất đất nước của Việt Nam không? [55] Câu trả lời là có chứ, mặc dù những bài học từ Việt Nam có giá trị tiêu cực hơn là tích cực. Về bản chất thì Hàn Quốc tuyệt đối cần phải tránh lập lại kinh nghiệm của Việt Nam. Trước hết, sự thống nhất của Việt Nam được thiết lập bằng vũ lực và tổn phí rất lớn. Tổn phí nhân mạng trong chiến tranh để thống nhất của cả hai phía là gần 3 triệu người Việt. Tổn phí kinh tế và môi trường là to lớn và vẫn chưa được tính toán đến. Thứ nhì, thống nhất qui chính quyền về một mối, và đó là một điều có lợi. Tuy nhiên trong truờng hợp này thì thống nhất bằng vũ lực đã tạo ra một nhà nước quá quyền năng và hợm hĩnh đã làm thui chột xã hội và theo đuổi một viễn kiến hoang tưởng, làm cho đất nước kiệt quệ và dân chúng nghèo đói.
Điều thứ ba là thống nhất chưa bao giờ mang lại sự đoàn kết dân tộc như mong mỏi. Chế độ Sài gòn có thể không được lòng mọi người như đối thủ Hà nội của họ, nhưng nó vẫn có những người trung thành với nó. Hằng triệu thường dân miền Nam đã trốn chạy khỏi nước sau chiến thắng của cộng sản hay trong thập niên dầu của thống nhất, với hàng ngàn “thuyền nhân” bỏ mạng trong cuộc hành trình. Sau khi thống nhất bằng vũ lực, lãnh đạo Hà nội dẹp qua một bên những lời kêu gọi thống nhất (hoà giải) đất nước và đưa hàng trăm ngàn người trung thành với chính phủ Sài gòn vào trại cải tạo. Nhiều người trong số này chỉ được thả vào đầu thập niên 1990, và họ chỉ được thả sau khi Hoa Kỳ lấy đó làm điều kiện để bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Quan hệ giữa chính quyền Việt Nam và những cộng đồng người Việt hải ngoại ngày nay vẫn còn căng thẳng mặc dù có những cố gắng từ những cá nhân của cả hai bên để hoà giải. Cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt, người đã mất vợ và hai con trong chiến tranh, gần đây công nhận rằng ngày kỷ niệm thống nhất là ngày mang lại niềm vui hàng triệu người Việt Nam nhưng cũng mang lại nỗi buồn cho hàng triệu người Việt khác.
Suy gẫm lại, có lẽ điều lợi to lớn nhất của việc thống nhất là hoà bình. Sau ba thập niên xáo trộn, hoà bình đã được nhiều người bị thua trận trong cuộc nội chiến thật sự đón chào. Tuy vậy hoà bình lại trở thành ảo ảnh: chỉ trong vòng 5 năm Việt Nam lại rơi vào chiến tranh với Kampuchea và Trung Quốc. Dĩ nhiên mọi người có thể đỗ lỗi cho láng giềng của Việt Nam đã gây ra chiến tranh. Tuy nhiên cùng lúc đó những quan hệ hậu chiến rối bời của Việt Nam với Trung Quốc và Kampuchea không thể được tách ra khỏi những động thái trước đây của Hà nội đối với ganh đua giữa Trung Quốc và Liên Xô và việc sử dụng lãnh thổ Kampuchea để làm lợi cho cuộc cách mạng Việt Nam. Dù lỗi của ai cũng vậy, thật là mỉa mai khi một cuộc chiến đẫm máu được dựng lên trong hai thập kỷ đế thống nhất với vài triệu mạng người mất mát, mà lợi ích do thống nhất mang lại chỉ là hoà bình! Như vậy thì gây ra chiến tranh để làm gì?
Số phận của Việt Nam được hình thành một phần bởi chiến tranh Triều Tiên, không những vì cuộc chiến đó nâng tầm quan trọng của Việt Nam đối với Hoa Kỳ, và khiến Mao và Stalin chậm hỗ trợ một cuộc chiến tương tự tại Việt Nam những năm 1950, mà còn vì cuộc chiến đó ảnh hưởng đến những tinh toán của Bắc Việt đối với vấn đề làm sao huy động cuộc chiến của họ để đạt được thống nhất. Thay vì phát động một cuộc xâm chiếm vượt qua vùng phi quân sự như Bắc Hàn đã làm, Bắc Việt chọn lựa đạo diễn một cuộc nổi dậy tại miền Nam với sự trợ giúp của binh đoàn Bắc Việt gửi vào từ miền Bắc qua ngả Lào và Kampuchea. Nhờ vậy Bắc Việt đã thành công còn Bắc Triều Tiên thì thất bại. Sự thất bại của Bắc Hàn đã khiến cho Nam Hàn được tồn tại và dần dà đưa đến thành công kinh tế tại đây. Thành công quân sự của Bắc Việt đưa đất nước đến một ngõ cụt mà họ vẫn chưa rút ra được.
Một cách ngắn gọn, kinh nghiệm Việt Nam cho thấy thống nhất lãnh thổ và chính trị chưa chắc tạo ra đoàn kết dân tộc. Mục đích của những người Hàn đang thất vọng là phải nhắm vào điều sau (đoàn kết dân tộc), chứ không phải điều trước (thống nhất lãnh thổ), cho dù phải mất bao nhiêu thời gian cũng vậy.
_______________
Chú thích
[1] Để tìm hiểu thêm về sự xuất hiện của chủ nghĩa quốc tại Nam Hàn từ thập niên 1980, hãy đọc bài “The Politics of Identity: History, Nationalism, and the Prospect for Peace in Post-Cold War East Asia” của Sheila Miyoshi Jager (Bài viết được phát hành bởi Viện Nghiên cứu Sách lược Hoa kỳ, 2007), có thể tìm được tạihttp://www.strategicstudiesinstitute.army.mil/pdffiles/PUB770.pdf. Để tìm hiểu thêm về một hiện tượng tương tự tại Việt Nam gần đây, hãy tìm đọc bài “Southeast Asia’s New Nationalism: Causes and Significance,” của Vũ Tường, Transnational and Regional Studies of Southeast Asia (TRaNS) (sắp có).
[2] Leo Tolstoy, Anna Karenina, bản dịch của Constance Garnett (New York: Barnes & Noble, Inc., 1997), trang 3.
[3] Hãy xem chương giới thiệu và chương của Leif-Eric Easley trong quyển này bàn về khái niệm trung cường.
[4] Tổng thống Nam Việt Ngô Đình Diệm và tổng thống Nam Hàn Rhee Syngman đều dọa sẽ mang quân bắc tiến để thống nhất đất nước, nhưng hai ông chưa bao giờ áp dụng chính sách xâm lấn này so với đối thủ miền Bắc của họ.
5] Keith Taylor, The Birth of Vietnam (Berkeley: University of California Press, 1983).
[6] Keith Taylor, “The Vietnamese Civil War of 1955-1975 in Historical Perspective,” trong Triumph Revisited Historians Battle for the Vietnam War, do Andrew Wiest và Michael Doidge biên tập (Hokoken, NY: Taylor & Francis, 2010) trang 17-28. Để đọc đánh giá về sự biên khảo theo cái nhìn của người quốc gia, hãy xem bài “Vietnamese Political Studies and Debates on Vietnamese Nationalism,”, trong Journal of Vietnamese Studies của Vũ Tường, tập 2 bộ 2 (Hè 2007), trang 175-230.
[7] Michael Seth, A History of Korea: From Antiquity to the Present, Plymouth, UK: Rowman & Littlefield Publishers, Inc., 2011) chương 1-2.
[8] Liam C. Kelley, Beyond the Bronze Pillars: Envoy Poetry and the Sino-Vietnamese Relationship (Honolulu: Association for Asian Studies, 2005); Keith Pratt, “Politics and culture within the Sinic Zone: Chinese Influences on Medieval Korea,”, The Korea Journal tập 20 bộ 6, (June 1980) trang 15-29.
[9] Seth, A History of Korea, chương 9.
[10] Kenneth M. Wells, New God, New Nation: Protestants and Self-Reconstruction Nationalism in Korea (Honolulu: University of Hawaii Press, 1990), chương 4.
[11] Charles Keith, “Protestantism and the Politics of Religion in French Colonial Vietnam”, trong French Colonial History 13 (2012), trang 141-174.
[12] Seth, A History of Korea, trang 269-271.
[13] Michael Robinson, Cultural Nationalism in Colonial Korea, 1920-1925 (Seattle: University of Washington Press, 1988).
[14] “Chủ nghĩa quốc gia dân sự” là chủ nghĩa quốc gia được xác định bởi tính công dân chung trong một quốc gia hiện đại, đối ngược với “chủ nghĩa quốc gia dân tộc”, được xác định bởi một sắc tộc chung.
[15] Gi-Wook Shin, Ethnic Nationalism in Korea: Genealogy, Politics, and Legacy (Stanford: Stanford University Press, 2006, trang 77).
[16] David G. Marr, Vietnamese Anticolonialism, 1885-1925 (Berkeley: University of California Press, 1971), chương 5& 6.
[17] Như trên, trang 145.
[18] Tục truyền này cho rằng vua rồng và chúa tiên là tổ tiên của người Việt.
[19] Tường Vũ, Paths to Development in Asia: South Korea, Vietnam, China, and Indonesia (New York: Cambridge University Press, 2010), chương 8.
[20] Shin, Ethnic Nationalism in Korea; B R. Myers, The Cleanest Race: How North Koreans See Themselves and Why It Matters (Brooklyn, N.Y: Melville House, 2010).
[21] Francois Guillemot, “Autopsy of a Massacre: On the Political Purge in the Early Days of the Indochina War (Nam Bo 1947),” European Journal of East Asian Studies 9:2 (2010), trang 229.
[22] Tuong Vu, “From Cheering to Volunteering: Vietnamese Communists and the Arrival of the Cold War 1940-1951,” in Connecting Histories: The Cold War and Decolonization in Asia (1945-1962), biên tập bởi Christopher Goscha và Christian Ostermann (Stanford: Stanford University Press, 2009), trang 172-204.
[23] “Báo cáo của Tổng Bí Thư Trường Chinh” [Report by General Secretary Truong Chinh], trong Văn Kiện Đảng Toàn Tập 1953 [Complete Collection of Party Documents] 14 (Hà nội: Chính trị Quốc gia, 2000), trang 53-54.
[24] Tuong Vu, “To Be Patriotic is to Build Socialism: Communist Ideology in Vietnam’s Civil War," trong Dynamics of the Cold War in Asia: Ideology, Identity, and Culture, biên tập bởi Tuong Vu và Wasana Wongsurawat (New York: Palgrave, 2009), trang 33-52.
[25] Lê Duẩn, “Đường lối cách mạng miền Nam” [Revolutionary Method in the South] (1956).
[26] Alec Holcombe, “Stalin, the Moscow Show Trials, and Contesting Vietnamese Visions of Communism in the Late 1930s” (bài được trình bày tại Workshop on Revolutions tại Vietnam, University of California, Berkeley, November 11-12, 2011), 41.
[27] Minh Tranh, “Những tác phẩm của V. Lenin ở nước ta” [V. Lenin’s works (published) in our country]. Học Tập, April 1960, 24-25.
28 “Nghị quyết của Ban Bí Thư số 80-NQ/TW” [Secretariat resolution no 80-NQ/TW], July 14, 1959, trong Văn Kiện Đảng Toàn Tập1959 [Complete Collection of Party Documents] 20 (Hà nộii: Chính trị Quốc gia, 2000).
28 “Nghị quyết của Ban Bí Thư số 80-NQ/TW” [Secretariat resolution no 80-NQ/TW], July 14, 1959, trong Văn Kiện Đảng Toàn Tập1959 [Complete Collection of Party Documents] 20 (Hà nộii: Chính trị Quốc gia, 2000).
[29] Bộ Giáo Dục [Ministry of Education], Tập Đọc Lớp Một [First Grade Reading Textbook] (Hà nội, 1956). Chí một cuốn sách giáo khoa duy nhất được dùng cho toàn nước.
[30] Bộ Giáo Dục [Ministry of Education], Tập Đọc Lớp Một [First Grade Reading Textbook] (Hà nội, 1972). Không có ấn bản nào được xuất bản giữa năm 1956 và 1972.
[31] Edward Miller, "Vision, Power and Agency: The Ascent of Ngô Dình Diêm, 1945-54," Journal of Southeast Asian Studies tập 35: bộ 3 (2004), trang 448-450.
[32] Ngô Đinh Diệm chống lại sự can thiệp trực tiếp của Hoa kỳ nhưng rồi bị lật đổ bởi những tướng lãnh của ông với sự giúp sức của CIA Mỹ.
[33] Kenneth M. Wells, South Korea's Minjung Movement: The Culture and Politics of Dissidence (Honolulu: University of Hawaii Press, 1995); Don Baker, “Christianity Koreanized,” in Nationalism and the Construction of Korean Identity, biên tập bởi Hyung Il Pai and Timothy Tangherlini (Berkeley: Institute of East Asian Studies, University of California, Berkeley, 1998), trang 108-125.
[34] Shin, Ethnic Nationalism in Korea, chương 9.
[35] Jager, “The Politics of Identity.”
[36] Gordon Flake, “The Rise, Fall, and Transformation of the ‘386’: Generational Change in Korea” (Seattle: National Bureau of Asian Research, September 2008), trang 109.
[37] Pierre Brocheux and Daniel Hémery, Indochina: An Ambiguous Colonization, 1858-1954, được dịch bởi Ly-Lan Dill-Klein và đồng nghiệp (Berkeley: University of California Press, 2009), chương 1.
[38] Vu, Paths to Development in Asia.
[39] Carter J. Eckert and Ki-baek Yi, Korea, Old and New: A History (Seoul: Ilchokak, 1990), 210; Brocheux and Hémery, Indochina, trang 135.
[40] Seth, A History of Korea, 285; Brocheux and Hémery, Indochina, trang135.
[41] Brocheux and Hémery, Indochina, trang 122.
[42] Vu, Paths to Development in Asia.
[43] Như trên, chương 2.
[44] Lim Chae-Hong, “The National Security Law and Anticommunist Ideology in Korean Society,” The Korea Journal tập 46: bộ 3 (Autumn 2006), trang 85-86.
[45] Dưới nền cai trị của chính phủ bảo thủ Lee Myung Bak đương thời, đạo luật này đã được thi hành triệt để hơn. Trong năm 2010, 151 người bị tra khảo vì tình nghi vi phạm Đạo luật An ninh Quốc gia, so với con số 39 người năm 2007. Con số người bị tòa xử vi những hoạt động ủng hộ Bắc Hàn trên mạng tang từ 5 người năm 2008 lên đến 82 người năm 2010. Số trang mạng trong nước bị đóng cửa vì có nội dung ủng hộ Bắc Hàn tăng từ 18 trong năm 2008 lên đến 178 năm 2011 (so sánh với khoảng 300 trang mạng Việt bị anh ninh việt Nam đóng cửa năm 2009). Choe Sang-Hun, “Đôi khi ca tụng Bìh Nhưỡng cũng là một tội,” New York Times, January 5, 2012.
[46] Seo Joong-Seok, “The establishment of an anti-communist state structure following the founding of the Korean government,” The Korea Journal tập 36: bộ 1 (Spring 1996), trang 79-114.
[47] Moon Seungsook, Militarized Modernity and Gendered Citizenship in South Korea (Durham, NC: Duke University Press, 2005), trang 30-43.
[48] Liberating our people, developing a people’s democracy, and advancing to socialism,” trong Trường Chinh Tuyển Tập (1937-1954) [Selected Works by Truong Chinh (Hà nội: Chính trị Quốc gia, 2007), trang 725-726.
[49] Muốn xem bản dịch tiếng Anh của nghị quyết này, Hãy xem Journal of Vietnamese Studies tập 5: bộ 2 (Summer 2010). Con số thật sự bị xử tử ước tính khoảng 15 nghìn người, tức là một phần nghìn dân số miền Bắc ViệtNam vào thời đó. Vo Nhan Tri, Vietnam's economic policy since 1975 (Singapore: ASEAN Economic Research Unit, Institute of Southeast Asian Studies 1990), trang 3.
[50] Benedict J. Kerkvliet, The Power of Everyday Politics: How Vietnamese Peasants Transformed National Policy (Ithaca, NY: Cornell University Press, 2005). Các hợp tác xã trung bình khoảng 60 hộ dântại Việt Nam năm 1960, so với khoảng 5 nghìn hộ dân tại Trung Quốc năm 1958.
[51] Kinh Lich, Tuyển Quân trong Làng Xã [Military recruiment in villages] (Hà nội: Quân Đội Nhân Dân, 1972). “Nuôi quân” có nghĩa là mời họ đến dự những sự kiện liên quan đến tuyển quân và những sinh hoạt thanh niê n khác để hỗ trợ triền tuyến, đồng thời nói chuyện với những chàng trai và cha mẹ họ về những trông mong của chính quyền đối với việc họ đầu quân.
[52] Kim Ngọc Bảo Ninh, A World Transformed: The Politics of Culture in Revolutionary Vietnam, 1945-1965 (Ann Arbor: University of Michigan Press, 2002).
[53] “Nghị quyết của Ban Bí Thư số 80 -NQ/TW.”
[54] Hong Yong-pyo, State Security and Regime Security: President Syngman Rhee and the Insecurity Dilemma in South Korea, 1953-60 (New York: St. Martin's Press, 1999), trang 130; George E. Ogle, South Korea: Dissent within the Economic Miracle (London: Zed Books, 1990), trang 32.
[55] Thống nhất đất nước tại Việt Nam được thực hiện bằng bạo lực. Những bài học của Việt Nam có thể hữu ích hơn cho Bắc Hàn bởi vì Bắc Hàn có vẻ muốn đi con đường bạo lực này hơn Nam Hàn.