Trùng Dương
Trong lịch sử Việt Nam có hai cuộc di cư vĩ đại, cả hai cùng để lánh
nạn cộng sản, vào năm 1954 và 1975. Cuộc di cư 1975, kéo dài từ những
ngày tháng 4, 1975 cho tới năm 1988, là năm đóng cửa các trại tị nạn ở
Đông Nam Á với sự ra đời của Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly
Departure Program) sau bao thảm kịch vượt biên vuợt biển với khoảng 500
ngàn người bỏ mạng trên đường đi tìm tự do, theo một thống kê của Liên
Hiệp Quốc. Cuộc di cư này đã có nhiều sách vở tài liệu cùng với hình ảnh
đầy dẫy trong các thư viện cũng như trên Internet. Riêng cuộc di cư năm
1954-55 có thể nói là chưa có một tài liệu nào đúc kết lại tương đối
đầy đủ, cho tới gần đây.
Cuốn “Operation Passage to Freedom – The United States Navy in
Vietnam, 1954-1955” (Texas Tech University Press, Lubbock, Texas, 2007),
tạm dịch là “Chiến Dịch Đường Tới Tự Do - Hải Quân Hoa Kỳ tại Việt Nam,
1954-1955”, do Ronald B. Frankum, Jr. biên soạn, có thể nói là cuốn
sách đầu tiên đã cho ta một cái nhìn khá đầy đủ và chi tiết về cuộc di
tản kéo dài 300 ngày, từ ngày 15 tháng 8, 1954, gần ba tháng sau khi
ngày ký kết sau khi Hiệp Định Geneva chia cắt Việt Nam thành hai miền
Bắc, Nam, tới ngày 15 tháng 5, 1955, ngày chiếc tầu chở dân di cư cuối
cùng rời khỏi mỏm Đồ Sơn.
Cuộc di tản này có sự tham dự của 115 chiến hạm và các loại tầu lớn,
nhỏ khác của Mỹ, và đã chuyên chở trên 310,000 người trong số 800,786
tổng số người di cư, kể cả dân lẫn quân sự, từ Bắc vào Nam. Số còn lại
do các cơ quan của chính phủ Việt, Pháp và Anh đảm trách, bằng phương
tiện vừa tầu thủy vừa máy bay, và khoảng trên 40,000 người tự túc bằng
các phương tiện riêng. (Table 10.1. Evacuation Totals, May 1955, tr.
205, và Phụ Lục C, tr. 216)
Cuốn sách dầy 250 trang, bìa cứng, gồm 9 chương và một chương kết,
và ba phụ lục, đã hẳn được biên soạn như một phần của lịch sử Hải Quân
Hoa Kỳ, đặc biệt nhấn mạnh khía cạnh đóng góp vào các công tác nhân đạo
của binh chủng này. Song đây cũng là một tài liệu quý và có lẽ là độc
nhất về cuộc di tản vĩ đại, tuy không bi thảm bằng cuộc di tản năm 1975
và những chuyến vượt biên sau đó, cho những nhà viết sử và những người
quan tâm tới lịch sử Việt Nam. Bởi vì tập sách không những chỉ đề cập
tới việc di tản người di cư, mà còn kể tới cả những nỗ lực định cư khối
gần 1 triệu người tại miền Nam nữa, ít ra là trong thời gian 300 ngày di
tản, cho tới khi chuyến tầu chót rời vùng Hải Phòng vào ngày 15 tháng
5, 1955 khi bức màn tre buông xuống ở miền Bắc.
Hành trình của những chuyến tầu chở di cư từ Bắc vào Nam, 1954-1955.
(Bản đồ trích từ National Geographic số ra tháng 6-1955
Sử gia Frankum cho biết sở dĩ ông quan tâm tới cuộc di tản 1954-55
này vì trong khi nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam và các diễn biến
khởi thủy dẫn tới việc Mỹ tham dự vào Việt Nam, ông nhận thấy biến cố di
này thường chỉ được đề cập tới qua loa ở phần chú thích ở cuối trang.
Vào đầu năm 1998, ông kể trong bài tựa, trong lúc đang ngồi duyệt lại
một số hình ảnh trong bộ sưu tập của Douglas Pike, một nhân viên Bộ
Ngoại Giao đã trải qua nhiều năm làm việc ở và sưu tập các dữ kiện về
Đông Nam Á, có một tấm hình đã lôi kéo sự chú ý của ông. Đó là bức hình
một bà cụ Việt Nam vẻ khốn khó tiều tùy vây quanh bởi một số thủy thử
Mỹ. Chú thích đằng sau tấm hình ghi là hình chụp trong chiến dịch được
mệnh danh là Passage to Freedom (Đường TớiTự Do). Bức hình, với nét mặt
nói lên một đời khổ cực, niềm bàng hoàng từ kinh nghiệm vừa trải qua, và
một thoáng hy vọng của người đàn bà đã lưu lại trong ký ức Frankum dai
dẳng cả một, hai năm sau đó. Ông bắt đầu một cuộc tìm hiểu về chiến dịch
này. “Điều mà tôi đã học hỏi được sau đó khá sốc, vì rằng một số tài
liệu quan trọng về cuộc chiến Việt Nam đã chỉ đề cập qua loa tới chiến
dịch Đường Tới Tự Do này.”
Vào đầu năm 2000, ông quyết định dùng chiến dịch này làm nền tảng
cho dự án nghiên cứu kế đó của ông. Vào một ngày thứ Sáu, ông lục tìm
trên Internet và thấy một số Web sites của các hội cựu chiến binh thuộc
một số chiến hạm Mỹ và địa chỉ liên lạc, ông gửi e-mail đi để tìm và xin
liên lạc với những người đã từng tham dự vào chiến dịch Đường Tới Tự
Do. “Những hồi âm tôi nhận được vào sáng thứ Hai khi tôi trở lại làm
việc đã châm ngòi cho tiến trình hình thành cuốn sách này,” ông Frankum,
tác giả của nhiều tập sách biên khảo về chiến tranh Việt Nam, cho biết.
“Chiến Dịch Đường TớiTự Do là một biến cố [đáng được đề cập tới
nhiều] hơn là chỉ bằng một đoạn ngắn trong cuộc chiến của Mỹ tại Việt
Nam,” tác giả viết trong phần dẫn nhập. “Đối với phần lớn người Mỹ,
Chiến Dịch Đường TớiTự Do, nếu có nghĩ tới chăng, là một ghi chú trong
giai đoạn tham dự khởi thủy của một cuộc chiến sẽ nuốt chửng cả nước Mỹ
một thập niên sau đó. Tuy nhiên, đối với các chàng trai trẻ hồi ấy, giờ
đã ở tuổi 70 và 80, những người đã di tản cả một quốc gia vào năm 1954
và 1955, Chiến Dịch Đường Tới Tự Do là điểm mấu chốt của đời họ. Ngay cả
50 năm sau, đối với những thủy thủ đã phục vụ trên những con tầu của
Task Force 90, biến cố này đã là một trong những điểm quyết định của đời
họ.”
Cuộc di tản không những đã gây ấn tượng sâu đậm nơi các thủy thủ đã
tham dự vào chiến dịch di tản vĩ đại này, nó còn thay đổi cuộc đời của
gần 1 triệu người Bắc di cư, bên cạnh cuộc đời của 11 triệu người sinh
quán ở miền Nam, sự ra đời của một quốc gia mang tên Việt Nam Cộng Hoà
hừng hực một sức sống và tiềm năng phát triển. Với sự bảo lãnh của Hoa
Kỳ, VNCH đã lôi kéo được nhiều hứa hẹn tiếp tay kiến thiết và xây dựng
từ các nước tự do trên thế giới. Nếu không vì tham vọng thanh toán miền
Nam của Hànội và sự hỗ trợ ồ ạt của khối cộng sản thế giới sau đó và một
guồng máy tuyên truyền tinh vi, có thể VNCH đã trở thành một thứ Nam
Hàn.
Và, nhìn từ khía cạnh văn hóa, ta đã thấy sự hình thành và phát
triển rầm rộ, chưa từng có trong lịch sử về mọi khía cạnh, giáo dục, xã
hội, và đặc biệt văn học nghệ thuật, mặc dù chỉ trong một giai đọan ngắn
có 20 năm, 1954-1975, thời gian chưa đủ cho một cá nhân trưởng thành.
Nền văn học ấy đã nẩy nở, phô sắc muôn mầu muôn vẻ là nhờ được sinh ra
trong bầu không khí tự do, lại được tiếp sức, nuôi dưỡng bởi nền văn học
tiền chiến trước đó cũng từ Bắc di cư vào Nam (vốn đã bị bức tử ở chính
nơi chôn nhau cắt rốn của nó), phối hợp với nền tảng văn học sẵn có bấy
giờ của miền Nam vốn vẫn được hưởng một không khí tự do cởi mở hơn ở
Bắc trước đó, và bởi việc mở tung cửa ngõ đón nhận các trào lưu tư tưởng
và triết lý của phương Tây vô cùng phong phú của thập niên 1950 và
1960.
Trở lại cuốn “Operation Passage to Freedom”, Frankum cho rằng Hoa Kỳ
đã hành xử trong tinh thần trách nhiệm: sau khi đã giúp di tản khối
người khao khát tự do đông đảo này vào miền Nam (mà nếu để một mình hai
chính phủ Pháp và Việt Nam chắc chắn đã không mang được cái biển người
muốn rời khỏi miền Bắc vào Nam ấy, trong khi Anh quốc cũng chỉ tiếp tay
cầm chừng vì coi đó là vấn đề của Pháp). Để giúp họ ổn định chỗ ở, Hoa
Kỳ đã không thể quay lưng coi như đã hoàn tất phần sự và đã tiếp tục hỗ
trợ giúp miền Nam xây dựng nên một quốc gia mới trên căn bản dân chủ tự
do, điều mà ai cũng phải công nhận. Sự tham dự tích cực này của Hoa Kỳ
lại chính là điều mà Hànội đã khôn khéo khai thác tuyên truyền cho chiêu
bài chiến tranh giải phóng của họ vài năm sau đó, đồng thời khiến cho
nhiều người miền Nam cũng chấp nhận chiêu bài ấy một cách cố tình hay vô
thức. Tôi vẫn nghĩ, cũng như với chiến dịch Đường Tới Tự Do ít được đề
cập tới một cách chi tiết, công lao định cư cả một biển người của chính
phủ Ngô Đình Diệm hình như vẫn chưa được nghiên cứu tìm hiểu tường tận.
Và tôi cũng rất tò mò muốn biết báo chí Miền Nam lúc ấy đã tường thuật
ra sao về cuộc di cư khổng lồ này, cũng như công cuộc định cư vô cùng
phức tạp sau đó.
Đọc “Operation Passage to Freedom” tôi có cái thích thú, ngoài một
thỏa mãn về phương diện kiến thức, của người được nghe kể những chuyện
chưa hề được nghe hay chỉ nghe biết lõm bõm đây đó mỗi nơi một chút, về
một biến cố đã thay đổi cả cuộc đời của bao nhiêu triệu con người, mặc
dù chính tôi, hồi ấy còn là một cô bé mới 10 tuổi, có mặt trong cái
giòng người xuôi Nam ấy. Những chuyện từ nhỏ tới lớn, quan trọng tới
tiểu tiết, mà Frankum đã tìm thấy qua những văn thư chính thức, bản
tường trình, thư từ trao đổi giữa các nhân vật trong thời gian liên hệ
được lưu trữ trong văn khố của Hải Quân và Thư Viện Quốc Hội, và qua
những cuộc phỏng vấn với các cựu thủy thủ hiện còn sống và đã có mặt
trên hơn 100 chiến hạm tầu bè đủ loại chở dân di cư suốt 300 ngày ngược
xuôi hai miền Bắc Nam. Có những tài liệu ghi lại lời kể của các nhân
chứng về những ngăn chặn, tuyên truyền (như việc sẽ bị thủy thủ Mỹ ném
xuống biển một khi tầu nhỏ neo ra khơi nếu ghi danh di cư, chẳng hạn),
phá hoại, kể cả việc đòi nạp tiền mua giấy tờ di chuyển, của Việt Minh,
khiến nhiều vạn người đã bị kẹt lại.
Một trong những chi tiết tôi không khỏi bật cười, bên cạnh những cái
nhíu mày không tránh khỏi trước những biến cố lịch sử tưởng đã vùi sâu
chôn chặt sau cả hơn nửa thế kỷ: Đó là chuyện (mặc dù Pháp đã hứa sẽ
cung cấp thông dịch viên, nhưng đã không đáp ứng) thiếu người trên tàu
Mỹ biết tiếng Việt cũng như tiếng Pháp, hoặc biết tiếng Pháp mà là thứ
tiếng Pháp học ở trung học chẳng ai hiểu; và không có người biết tiếng
Anh bên phía dân di cư. Vậy làm sao để nói chuyện, truyền đi thông tin
cần thiết nơi tầu bốc người, trong lúc trên tầu cho chuyến hải hành ba
ngày vào Nam, và tại nơi đổ người xuống bến? Bên phía Mỹ chợt có người
khám phá ra mấy ông linh mục Việt là những người biết tiếng La tinh, một
ngôn ngữ đã chết không còn mấy ai dùng; và trên tầu Mỹ tình cờ có mấy
ông tuyên úy đạo Thiên Chúa cũng phải biết tiếng La tinh. Một thủy thủ
nhớ lại trong một cuộc phỏng vấn với Frankum là tiếng La tinh do đấy đã
có lúc được xử dụng trong chiến dịch di tản và anh ta nghĩ là thật nực
cười khi một tử ngữ đã được dựng dậy để làm phương tiện truyền thông.
Tuy nhiên, không phải tầu nào cũng có cái may mắn xa xỉ có được một ông
tuyên úy nói được tử ngữ này. Do đấy nói chuyện bằng tay trở thành ngôn
ngữ chung.
Cuốn sách, với lời giới thiệu của Tiến sĩ James R. Reckner, chủ bút
nhà xuất bản Texas Tech University Press, được trình bầy theo thứ tự
thời gian của các diễn biến của các biến cố và sự việc, nên khá dễ đọc,
vớí Chương 1 mang tựa là Đường tới Geneva (Road to Geneva); Chương 2
Khủng Hoảng Gia Tăng (The Growing Crisis); Chương 3 Tổ Chức Di Tản
(Organizing the Passage); Chương 4 Một Biển Người, Tháng 8, 1954 (A Mass
of Humanity, August 1954); Chương 5 Thách Thức Trên Bộ, Tháng 8, 1954
(Challenges by Land); Chương 6 Từ Hà Nội tới Hải Phòng: Vòng Tròn Khép
Lại (Hanoi to Haiphong: The Circle Closes); Chương 7 Cuộc Định Cư Một
Quốc Gia (Resettling a Nation); Chương 8 Từ Hà Nội Tới Hải Phòng: Một
Đất Nước Trong Chuyển Tiếp (Hanoi to Haiphong: A Country in Transition);
Chương 9 Chuyển Tiếp và Đổi Thay (Transitions and Change); và phần Kết
Luận Bức Màn Tre Buông Xuống (The Bamboo Curtain Falls).
Trong chương kết, Frankum có viết một đoạn khiến người đọc không
khỏi ngậm ngùi: “Chuyến tầu Mỹ cuối cùng, chiếc General Brewster, rời
cảng Hải Phòng đúng hạn vào ngày 13 tháng 5 [1955], hướng về Đồ Sơn để
bốc lực lượng an ninh và đồ phụ tùng cuối cùng của Pháp, cùng với nhóm
khoảng 10 người tị nạn đã bỏ trốn khỏi vùng Việt Minh. Trong đám 10
người này có một người cha và cô con gái đã phải lưu lại Hà Nội vì người
mẹ không chịu bỏ miền Bắc di cư. Hai cha con này, những người di cư
chính thức cuối cùng theo Hiệp Định Geneva, đành bỏ lại người mẹ ở Hà
Nội hơn là phải sống dưới sự đô hộ của Việt Minh. Sự chia cắt gia đình
này tượng trưng cho giai đọan 1954 và 1955 khi Đông Dương bị chia thành
Bắc và Nam. Phần lớn những người bỏ miền Bắc ra đi vào Nam đã bỏ lại
đằng sau vài người thân trong gia đình hoặc mồ mả tổ tiên họ. Đối với
những người này đất nước thực sự bị chia cắt và chỉ có thể trở lại
nguyên vẹn khi nào Việt Minh bị đánh bại và họ được trở về nơi chôn nhau
cắt rốn. Đối với những người này, giấc mơ hồi hương ấy đã không bao giờ
trở thành hiện thực, và đối với những người sống sót cuộc chiến tới
ngày 30 tháng 4, 1975, kinh nghiệm di cư Đường Tới Tự Do – ở một mức độ
tàn khốc và vô tổ chức hơn nhiều -- lại đã tái diễn. Những người Việt
Nam bỏ miền Bắc ra đi chỉ bị mất nhà. Năm 1975, họ mất cả quê hương.”
(tr. 205)
“Operation Passage to Freedom” hiện có bán tại Amazone.com. [TD, 05/2010, 07/2014]