GS Nguyễn Văn Tuấn
Những người lãnh đạo giỏi và có bản lĩnh họ không chỉ nói, mà còn
thực hiện những gì họ nói. Ngay cả cách nói, mỗi một lần phát biểu họ
đều để lại những câu mà báo chí có trích trích dẫn (quotable words) hay
làm cho người nghe phải suy nghĩ vì nó có cái wisdom trong đó. Chẳng hạn
như khi nói về những việc làm liên quan đến tai nạn máy bay MH17, thủ
tướng Úc nói “Mục tiêu của chúng ta là đảm bảo phẩm giá, sự tôn trọng,
và công lí cho người quá cố và người đang sống.” Đó là một câu có thể
trích dẫn.
Nhìn lại giới lãnh đạo VN, tôi thấy hình như họ không có cái tư chất
về ăn nói của chính khách phương Tây. Chính khách VN quen với đường mòn
chữ nghĩa mang đậm bản chất XHCN nên họ chỉ loanh quanh những câu chữ
quen thuộc. Họ không nói được cái gì cụ thể, mà chỉ xoay quanh các khẩu
hiệu quen thuộc, kiểu như “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.” Đọc qua nhiều bài phát biểu của các lãnh đạo VN tôi nhận ra vài
đặc điểm chính (có thể chưa đủ) như sau:
Thứ nhất là tính chung chung, không có một cái gì cụ thể. Có thể nói
rằng thói quen phát biểu chung chung là đặc điểm số 1 của chính khách
VN, họ không có khả năng nói cái gì cụ thể, tất cả chỉ chung chung, ai
muốn hiểu sao thì hiểu. Ví dụ như phát biểu “Đặc biệt là, tình hình Biển
Đông hiện đang diễn biến rất phức tạp, nghiêm trọng, đòi hỏi toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta phải hết sức tỉnh táo, sáng suốt, tăng cường
đoàn kết, cả nước một lòng, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định để xây dựng và phát triển đất nước.” Đọc xong đoạn văn chúng ta
chẳng có thông tin nào, mà tất cả chỉ là những rhetoric tầm thường,
giống như những khẩu hiệu được nối kết với nhau. Chúng ta cũng không có
thêm thông tin, ngoại trừ một chữ rất chung chung là “phức tạp”. Hai chữ
“phức tạp” có thể nói là rất phổ biến ở VN, đụng đến cái gì họ không
giải thích được, không mô tả cụ thể được, thì họ bèn thay thế bằng hai
chữ “phức tạp” mà chẳng ai hiểu gì cả. Cả một đoạn văn 74 chữ, chúng ta
không thấy một ý nào cụ thể và không thể trích dẫn bất cứ câu nào.
Thứ hai là dùng nhiều sáo ngữ. Ví dụ tiêu biểu cho đặc điểm này là
bài nói chuyện nhân kỉ niệm 40 năm ngày kí Hiệp định Paris: “Hiệp định
Paris là đỉnh cao thắng lợi của mặt trận ngoại giao nước ta thời kỳ
chống Mỹ, cứu nước, là mốc son trong trang sử vàng của nền ngoại giao
cách mạng Việt Nam.” Chú ý những chữ “mốc son”, “sử vàng”, “mặt trận
ngoại giao”, tất cả đều là những sáo ngữ. Có một loại sáo ngữ khác là
chúng mang tính tích cực nhưng không có ý nghĩa thực tế. Vì dụ như bài
diễn văn nhân dịp kết thúc một đại hội đảng, có đoạn: “Sau hơn 15 năm
thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa, tư duy lý luận
về văn hóa của chúng ta đã có bước phát triển…. Nhiều phong trào văn hóa
đem lại hiệu quả thiết thực. Truyền thống văn hóa gia đình, dòng họ,
cộng đồng… được phát huy.” Chúng ta chú ý thấy nào là “phát triển”,
“phát huy”, “hiệu quả thiết thực”, nhưng vì chúng không có một dữ liệu
cụ thể nào nên tất cả chỉ là rỗng tuếch về ý nghĩa. Thật vậy, đọc xong
đoạn phát biểu này chúng ta không thấy bất cứ một điểm cụ thể nào để nhớ
hay để làm minh hoạ. Chẳng có một ý tưởng nào để đáng nhớ.
Một trong những sáo ngữ chúng ta hay thấy trong các bài phát biểu là
“đánh giá cao”. Ví dụ như “tôi cám ơn và đánh giá cao bài phát biểu rất
tốt đẹp của Ngài Thủ tướng Hà Lan”, “tôi đánh giá cao và chân thành cám
ơn sự hỗ trợ của Chính phủ …”. “Đánh giá cao” hình như là một thuật ngữ
đặc thù xã hội chủ nghĩa nó vẫn còn sống sót đến ngày hôm nay. Thoạt đầu
nghe qua “đánh giá cao” thì cũng hay hay, nhưng nghĩ kĩ thì thấy câu
này chẳng có ý nghĩa gì cả. Thế nào là đánh giá cao, cao cái gì? Tôi
thấy nó là một sáo ngữ cực kì vô duyên và vô dụng.
Thứ ba là không có thông tin (lack of information). Có nhiều lãnh đạo
VN quen tính nói rất nhiều, nhưng nếu chịu khó xem xét kĩ chúng ta sẽ
thấy họ chẳng nói gì cả. “Chẳng nói” vì những gì họ nói ra không có
thông tin, tất cả chỉ là những câu chữ lắp ráp vào nhau cho ra những câu
văn chứ không có dữ liệu. Do đó, có khi đọc xong một đoạn văn chúng ta
chẳng hiểu tác giả muốn nói gì. Chẳng hạn như phát biểu về hiến pháp,
ông chủ tịch QH nói: “Chúng tôi cũng hiểu rằng một bộ phận, một số người
trong các tầng lớp nhân dân và ngay một số ĐBQH cũng còn ý kiến khác.
Tuy nhiên tuyệt đại nhân dân và Quốc hội có thể khẳng định đã đồng tình
cao với bản Hiến pháp thông qua lần này. Với quyền năng nhân dân trao
cho Quốc hội, chúng ta đã thể hiện được đại đa số nguyện vọng của toàn
dân, của Quốc hội với tinh thần làm chủ của nhân dân, chúng ta sẽ biểu
quyết theo tinh thần đó.” Câu cú và cấu trúc ý tưởng chẳng đâu vào đâu.
Lúc thì quyền năng nhân dân trao cho Quốc hội, lúc thì nguyện vọng của
toàn dân, của Quốc hội, lại còn đèo theo một câu “tinh thần làm chủ của
nhân dân”. Câu chữ cứ nhảy nhót loanh quanh, chẳng đâu vào đâu, và cuối
cùng là chẳng có gì để nói!
Thứ tư là ngôn ngữ khẩu hiệu. Có thể nói rằng rất rất nhiều bài nói
chuyện và diễn văn của các lãnh đạo VN chỉ là những khẩu hiệu được lắp
ráp vào với nhau. Có những khẩu hiệu quá quen thuộc nên chẳng ai chất
vấn tính chính xác của nó. Ví dụ như câu “Trong niềm tự hào, chúng ta
thành kính tưởng nhớ và bày tỏ lòng biết ơn vô hạn với Chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại - vị lãnh tụ thiên tài, Anh hùng giải phóng dân tộc, danh
nhân văn hóa thế giới…”, có lẽ chẳng ai để ý đến chữ “danh nhân văn hóa
thế giới”. Nếu người bình thường phát biểu như thế thì chắc người ta
cũng lắc đầu bỏ qua, nhưng lãnh đạo mà phát biểu như thế thì chẳng có gì
sáng tạo, chỉ lặp lại những câu chữ đã có trước đây.
Một loại ngôn ngữ khẩu hiệu khác mang tính tự hào. Tự hào là một “đặc
sản” của các vị lãnh đạo VN, đi đâu cũng nghe họ nói về tự hào. Điều
này cũng hiểu được, vì làm lãnh đạo thì phải gieo niềm tự hào vào người
dân. Nhưng gieo không đúng chỗ và gieo mãi thì có thể trở thành phản tác
dụng. Thử đọc bài diễn văn có đoạn “Chúng ta tự hào về đất nước Việt
Nam anh hùng, nhân dân Việt Nam anh hùng, tự hào về những con người giản
dị bằng những việc làm tốt của mình ở mọi lúc, mọi nơi đã góp phần làm
nên vẻ đẹp văn hóa của con người Việt Nam, đất nước Việt Nam; góp phần
quyết định để xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh.” Tôi tự hỏi có
cần quá nhiều tự hào như thế. Đất nước anh hùng, con người anh hùng, vẻ
đẹp văn hoá, v.v. nhưng tại sao đất nước vẫn còn nghèo và phải “ăn xin”
hết nơi này đến nơi khác và ăn xin kinh niên, con người vẫn còn đứng
dưới hạng trung bình trên thế giới. Thay vì tự ru ngủ là anh hùng và
giàu mạnh, tôi nghĩ lãnh đạo phải nói thẳng và nói thật là đất nước vẫn
còn rất nghèo, tài nguyên chẳng có gì, và cả nước đang phải đương đầu
với ngoại xâm.
Thứ năm là loại ngôn ngữ hành chính hoá. Nếu chú ý kĩ chúng ta sẽ
thấy phần lớn những bài nói chuyện, bài diễn văn các lãnh đạo đọc là họ
nói với đảng viên, với quan chức, công nhân viên, với quân đội, v.v. chứ
không phải nói với người dân. Có lẽ chính vì thế mà ngôn ngữ của họ
thường mang tính hành chính. Có những chữ mà hình như họ sử dụng quá
nhiều nên chẳng ai để ý ý nghĩa thật của nó, như “Trong thời kỳ đổi mới,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đối ngoại
phải tiếp tục là mặt trận quan trọng góp phần phát triển đất nước, bảo
vệ Tổ quốc.” Đối với người dân bình thường, ít ai hiểu công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, hội nhập quốc tế là cái gì. Có thể nói đó là những ngôn
ngữ xa lạ đối với người dân.
Những bài diễn văn của các chính khách phương Tây thường rất sinh
động, thực tế, và có khi… vui. Khán giả cảm thấy gần gũi với diễn giả.
Ngược lại, những bài diễn văn của lãnh đạo VN thường cứng nhắc, công
thức, và lúc nào cũng tỏ ra hết sức nghiêm trọng (dù sự việc chẳng có gì
nghiêm trọng). Khán giả nghe họ đọc hơn là diễn. Một phần có lẽ do lãnh
đạo VN chưa quen với văn hoá hài, và họ cũng muốn tỏ ra là người quan
trọng. Dù gì đi nữa thì những bài nói chuyện của lãnh đạo VN rất khó gần
với người dân do ngôn ngữ cứng đơ và kém thân thiện, và cách họ triển
khai bài nói chuyện quá xa rời công chúng.
Dĩ nhiên, những đặc điểm này không phải là độc quyền của các lãnh đạo
VN, mà thỉnh thoảng các chính khách phương Tây cũng vướng phải. Khi họ
vướng phải, người dân biết vị chính khách đó có vấn đề, hoặc là không
nắm vững vấn đề, hoặc là lúng túng. Vì không nắm vững vấn đề nên họ nói
chung chung. Có người nghĩ nói chung chung là nói “đa tầng”, nhưng thật
ra đó chỉ là cách nguỵ biện thô thiển. VN nói về hội nhập quốc tế, nhưng
với loại ngôn ngữ đặc thù XHCN trên đây, tôi nghĩ các lãnh đạo VN sẽ
rất khó gần với lãnh đạo thuộc thế giới văn minh.