Jonathan London
Vũ Quốc Hảo đã bị còng tay sau khi nhận án tử hình, 15/11/13 Nguồn: Tuổi trẻ
Việc nhà nước Việt Nam đã kết án tử hình hai nhân vật đã bị cáo buộc
với những tội danh tham nhũng không phải là bất ngờ. Chúng ta có thể chờ
đợi một kết quả như thế ở Việt Nam hay bất cứ chế độ chính trị độc tài
nào. Trong những chế độ như thế, trước mặt của những đe dọa nghiêm
trọng, giới lãnh đạo thường nỗ lực để chứng minh quyền lực tuyệt đối của
họ. Nhưng, phải hỏi, hành quyết có phải là một cách xử lý vấn đề tham
nhũng ở Việt Nam?
Chắc là không. Thậm chí ta có thế khẳng định thay vì chứng minh quyền
lực của nhà nước bằng những án tử hình hay là chứng minh sự bất lực
tương đối, cho thấy đến bây giờ nhà nước Việt Nam còn thiếu chính những
loại quyền lực cần có để đề cập bệnh chung tham nhũng một cách hữu hiệu.
Để hiểu tại sao chúng ta phải thấy rõ một số đặc điểm của nền chính
trị kinh tế đương đại của Việt Nam ít khi được hiểu đối với những người
không biết nhiều về đất nước này, thậm chí nhiều người Việt Nam cả ngoài
lẫn trong bộ máy. Lưu ý, tôi đề cập vấn đề và nêu rõ một số vấn đề cấp
bách trong quá trình cải cách của Việt Nam, là giữ chắc một tâm tính xây
dựng.
I
Thứ nhất trong những đặc điểm này là quyền lực ở Việt Nam, dù đại đa
số được hiểu là tập trung, (đặc biệt vì có sự có mặt của một nhà nước và
đảng theo mô hình chủ nghĩa Lê) trong thực tế là phân tán một cách đáng
kể và đã có xu hướng càng phân tán hơn nữa trong hai thập kỷ qua. Vâng,
những thể chế chính trị của Việt Nam về mặt hình thức là tập trung hóa.
Và vâng, về một số khía cạnh nhà nước có giữ quyền tuyệt đối như bà
hoàng trong truyện “Allison ở Đất nước thần kỳ,” tức là quyền để yêu cầu
và thực hành những chữ “lật đầu cô ta đi!” Gặp mặt thì loại quyền lực
này dễ bị sợ vì có nghĩa là ai cũng có thể bị loại bất cứ lúc nào.
Đã không phải là phút chót của cháu ấy
Nhưng, ở Việt Nam hiện nay, ngoài những trường hợp tiêu biểu từ Điếu
Cầy đến Minh Phụng, quyền lực chính trị và kinh tế chủ yếu được thực
hành một cách khác hẳn. Và những đặc trưng của quyền lực kinh tế chính
trị mà Việt Nam và đại đa số nước có thì hoàn toàn không thể quản lý
được nhiều kiểu quyền lực tuyệt đối.
Hãy nhìn vào các mối quan hệ quyền lực và uy quyền ở Việt Nam xưa và
nay. Ai biết gì về Việt Nam biết rằng chính quyền địa phương đã từ lâu
có đề kháng trước quyền lực trung ương. Theo phân tích xuất sác của
Alexander Woodside (trên cuốn sách Lost Modernities), những triều đại
(NTĐ) Ở Trung Quốc [NTĐ Đường (618-907)], Hàn Quốc [NTĐ nhà Cao Ly
(918-1392) và Triều Tiên (1392-19100)], và Việt Nam [Lý (10-10), Trần
(1225-1400), Lê (1428-1788), và Nguyễn (1820-1945) đã có những ‘bộ máy
quan liêu’ dù phong kiến cho đến hiện đại đã cho phép những nhà cầm
quyền để khắc phục những hạn chế của quyền lực tuyệt đối cũng như đã cho
phép ba nước này (trong những thời điểm nêu trên) có một số (không phải
là tất cả) thể chế quan liêu tiên tiến hơn châu âu về nhiều mặt, như hệ
thống thi vào bộ máy.. v.v.
Cuốn sách của nhà sử học A. Woodside (2006 NXB Harvard)
Quan trọng hơn cả là những triều đại này đã hành động theo những luật
lệ rõ ràng mà về nhiều khía cạnh không phụ thuộc vào những di truyền
(COCC) mà vì tài năng của họ. Chúng ta không cần phóng đại để khẳng định
rằng, trước khi những thể chế này đã thoái hoá dưới áp lực của những
vấn đề nội bộ cũng như sự phát triển của đế quốc chủ nghĩa, những NTĐ đã
có một yếu tố mà cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đang thiếu hiện nay. Cái
này Ông Woodside gọi là “phi phong kiến hóa chưa hoàn thành” (incomplete
de-feudalization) và đã cho phép những triều đại này để thống trị những
lãnh thổ khổng lổ hàng trăm năm trước khi có điện.
Ở đây tôi không đề cập sự suy tàn của quá trình này ở cả ba nước mà
chỉ nhấn mạnh ở Việt Nam và Trung Quốc, phong trào cách mạng từ đâu đã
được hiểu là một cách để phá hoại một trật tự xã hội đã tái-phong kiến
hóa, tham nhũng, và chủ yếu phục vụ cho những nhóm lợi ích và xoay quanh
trong những triều đại này. Cái mà những nhà cách mạng đã không thấy rõ
là, vì những lý do thể chế, chính bộ máy của họ không thể tránh được quá
trình mà chúng ta có thể gọi là ‘tái phong kiến hóa.’ Tức là luật lệ
(trên thực tế) không rõ. Và COCC là quan trọng hơn tài năng thực sự. Ai
đã ở Việt Nam trong những năm 1980 thì biết rất rõ về vấn đề này. Nhưng,
từ khoảng 1989 trở lại đây, tức là trong thời kỳ tôi gọi là thị trường
“Lê-nin”, vấn đề này còn kinh khủng hơn nữa. Vì cả vị trí chính trị lẫn
dòng họ đã thành yếu tố quan trọng hơn cả.
Chuyện của Việt Nam không dừng lại ở đó. Vì trong hai thập kỉ qua Nhà Nước Trung ương (TW) Việt Nam đã “giam cầm”
những quyền lợi địa phương và những quan chức địa phương cũng có thể
lên để nắm quyền ở TW. Thực vậy, những quan chức địa phương đã lên những
đỉnh cao của quyền lực nhà nước và đã đóng vai trò then chốt trong quá
trình đẩy mạnh những chương trình nhằm phân cấp quản lý hành chính và
chính trị cũng như quá trình cổ phần hóa hay (hiếm hơn) tư nhân hóa
những doanh nghiệp nhà nước.
Một Bác thích tập trung
Xin nhấn mạnh ở đây, chủ nghĩa tập trung hóa chẳng đảm bảo cái gì
tốt, như Lê Duẩn (chưa nói Stalin) đã chứng minh trước đây. Vấn đề không
phải là hệ thống thống trị có tập trung hóa hay phi tập trung hóa, dù
tôi thừa nhận những hạn chế tập trung hóa có một số nguy cơ riêng của
họ. Vấn đề là ở chỗ, hệ thống thống trị có minh bạch hay không? Có pháp
quyền hay không? Có cho phép những người có tài kể cả có tâm huyết để
điều hành hữu hiệu làm cho đất nước tiến lên được hay không?
Đối với Việt Nam, kết quả chính của những quá trình phân cấp quyền đã
và đang là sự gia tăng quyền hạn và tự do quyết định của các ‘sếp’
chính trị ở cấp tỉnh và ‘sếp’ (hay bố già) quản lý cao cấp của các doanh
nghiệp. Trong khi đó, những biện pháp điều phối để bảo đảm tính minh
bạch đã rất yếu hay không có, dù có những cơ chế ‘kỷ luật,’ dù có những
quá trình ‘báo cáo’ (tháng, quý, năm). Dù rất hay về nguyên tắc hình
thức trên thực tế những quá trình báo cáo, phê bình và tự phê bình có
nội dung gần như là vô nghĩa (trừ vài lần một số người bị hành quyết!).
Trong một môi trường có những bất cập như thiếu minh bạch, trách
nhiệm giải trình nhân với sự tăng trưởng kinh tế tương đối nhanh, có tín
dụng giá rẻ và ít ràng buộc, có những cơ hội có vẻ là vô cùng đã tạo ra
những mức độ tham nhũng và hành vi bất hảo đã không được thấy từ thời
kỳ thuộc địa. Thực vậy, nhiều khi, Việt Nam của hôm nay phô bày những
đặc trưng của một chế độ gia sản phân tán (decentralized patrimonial
regimes) mà cho phép thậm chí khuyến khích những ‘lợi ích đặc biệt’đề
kháng với chính quyền cao hơn, nếu không cần nói gì về sự điều hành. Nếu
hỏi Việt Nam là đất nước mà có mấy vua, bạn sẽ trả lời sao? Một? Bốn?
Không?
II
Đặc điểm thứ hai của nền kinh tế chính trị Việt Nam nên để ý đến vấn
đề kỷ luật trong Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) chưa mạnh so với sự
tưởng tượng của chúng ta kể cả những người trong đảng. Tôi giả định đại
đa số thành viên của đảng cầm quyền ở Việt Nam là những người trung thực
thôi. Nhưng, chẳng có ai cả – thậm chí những người ngây thơ nhất – có
thể phủ nhận rằng phần lớn của những vụ án tham nhũng (kể cả đã được và
chưa được công khai) đã xoay quanh một số đảng viên và ‘người của đảng.’
Vấn đề chính không phải là ‘chủ nghĩa xã hội’ mà là những vấn đề về
quyền. Như Ông Lord Acton đã nói: “Quyền lực tuyệt đối thì tham nhũng tuyệt đối".
Liệu ở Việt Nam hay bất kỳ nước nào, với sự vắng mặt của những cơ chế
kiểm tra độc lập cũng như sự vắng mặt của những thể chế pháp quyền (rule
of law), những người có vị trí có quyền lực nào, sẽ có chiều hướng sử
dụng quyền lực chính trị của họ để làm giàu cá nhân một cách rất trơ
trẽn.
III
Cái giá của tham nhũng ở Việt Nam là rất cao. Kết quả đáng buồn của
nó là lãng phí hoang tàng. Trong một nước đầy tiềm năng cần có về kỹ
năng lao động mà hạ tầng cơ sở thì lại rất thấp, tham nhũng có nghĩa là
hàng trăm và có thể hàng tỷ đô la đã bị bòn rút ra khỏi kho bạc nhà nước
và ra khỏi khu vực kinh tế sản xuất sang những ‘túi không xứng đáng’ và vào những khu vực phi sản xuất như đầu cơ địa ốc và tiêu dùng xa xỉ.
Một đặc điểm thứ ba của nền kinh tế chính trị Việt Nam hiện này mà dù
được hiểu rộng rãi ít khi được thể hiện một cách tự do là người Việt,
từ mọi phía, mọi tầng lớp xã hội, trong đó có nhiều người trong bộ máy
đảng báo động về bóng ma tham nhũng. Thực vậy, thái độ khinh thị đối với
quan chức tham nhũng đã trở nên rất mạnh.
Làm sao mà có Bentley ‘xanh’?
Sau hai thập kỷ có tiến bộ đáng kể trong việc xóa đói giảm nghèo,
những tiến bộ trong mức sống của dân Việt Nam đã chậm đi. Dễ bị tổn
thương kinh tế còn cao trong phần lớn dân số. Mặt khác, dân chưa thấy có
sự suy giảm trong doanh số bán xe Bentley và những mặt hàng như thế.
Vâng, tham nhũng, cả những loại quy mô từ nhỏ đến lớn đã trở thành
qui tắc trong thực tế của nền kinh tế chính trị của Việt Nam. Nhưng,
việc đó chẳng có ý nghĩa là đại đa số dân Việt trong hay ngoài bộ máy có
chấp nhận. Ở Mỹ có tham nhũng, Ở Singapore (vâng ở Singapore!) có tham
nhũng, và ở Philippines,Trung Quốc chắc chắn là có. Điều đó không có
nghĩa là những nước này là như nhau. Ở Mỹ tham nhũng (ngoài Washington!)
là ít. Ở Hàn Quốc chính phủ có nhiều chương trình mà nếu người dân phát
hiện và báo cáo về tham nhũng sẽ được bảo vệ và tặng tiền.
Kết Luận
Trên thực thế, tham nhũng ở Việt Nam, dù phức tạp bao nhiêu, chỉ là
dấu hiệu của những nguyên nhân cơ bản. Vì những đe dọa cơ bản nhất đến
sự thịnh vượng của Việt Nam không phải là những quan chức tham ăn mà là
sự có mặt của những thể chế cho phép, thậm chí khuyến khích những hành
vi tham nhũng thuộc về thể chế.
Cũng có thể đồng tình với những người có nguyên tắc hay than vản tham
nhũng trên mọi hình thức. Mặt khác, chúng ta không thể phủ nhận trong
một số bối cảnh lịch sử, một số điều kiện cụ thể, kể cả tham nhũng quy
mô lớn có thể tồn tại cùng với tăng trưởng kinh tế. Hãy nghĩ đến những
trường hợp như Wen Jibao và Xi Jin Ping hay những “Nam tước ăn cướp”
(Robber Barons) ở Hòa Kỳ ngày xưa. Điều đó là khách quan và chẳng hàm ý
là chấp nhận tham nhũng đâu.
Bọn “Robber Baron” của Mỹ Ngày Xưa – Có độc hại hơn bọn phố Wall của ngày nay?
Quan trọng là biết ai
Nhưng trong nhiều và chắc là đại đa số bối cảnh, tham nhũng có chiều
hướng làm suy giảm tăng trưởng kinh tế cũng như sự liêm chính của nhà
nước, như chúng ta đã thấy ở Việt Nam. Việt Nam vẫn còn đầy tiềm năng và
cũng có thể tưởng tượng nước này sẽ khắc phục tình trạng bất ổn của
hiện tại. Tuy nhiên, đối với nhiều người, cái rõ nhất là đất nước Việt
Nam vẫn thiếu những thể chế cần có đề xóa bệnh tham nhũng đã và đang phá
hoại những quyền lợi quốc gia.
Người Việt Nam là những người tự hào và nước Việt Nam đã trải qua hai
thập kỷ tăng trưởng kinh tế bền vững. Hiện nay, với tăng trưởng kinh tế
đang chậm đi trước mặt tham nhũng và sự cận thị về chính trị, nước Việt
Nam rất cần sự lãnh đạo có tầm nhìn xa và có quyền lực quyết định. Hơn
những kết án tử hình, Việt Nam hôm nay cần sự lãnh đạo chính trị và sự
quyết tâm của toàn dân để giành được một trật tự xã hội mà đảm bảo những
luật chơi công bằng cho tất cả mọi người, bất chấp địa vị, cấp bậc, hay
đảng phái của họ.
Jonathan London