Jonathan London
Ở khắp Việt Nam và trên toàn thế giới những người quan tâm đến Việt
Nam hiện đang cố hiểu ý nghĩa (hay sự vô nghĩa) của các sự kiện diễn ra
hôm Thứ Năm, khi Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (và
Đảng Cộng sản cầm quyền) chính thức phê chuẩn hiến pháp được sửa đổi sau
hơn một năm tranh luận với mức độ công khai trước nay chưa từng thấy về
các ưu điểm và khiếm khuyết của một hiến pháp vẫn giữ nguyên hiện
trạng. Ngay lúc này có thể có ba nhận định rất thích hợp như sau.
Thứ nhất, về mặt thời sự, việc thông qua hiến pháp chẳng phải là tin
tức mới mẻ và chắc chắn đã không được nhiều người chú ý nếu không có
cuộc tranh luận toàn quốc về hiến pháp này. Quốc hội – từ thuở ban đầu
đến nay – là một cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, do Đảng lập nên, và
phục vụ cho Đảng. Nói như vậy chẳng có ai cãi, và chí ít cũng giúp lý
giải kết quả 486 đại biểu tán thành và 0 đại biểu không tán thành trong
một cơ quan tự cho mình là đại diện của toàn dân. Thật tình chẳng có gì
đáng ngạc nhiên về bản thân kết quả này ngoại trừ chuyện nó gợi ý ít
nhiều về tuồng kịch diễn ra xung quanh cuộc họp này; tuồng kịch mà bản
thân nó do những tác động nhìn chung không liên quan đến chính Quốc hội.
Thứ hai, tuy có lẽ phản ánh các quan điểm của “đại đa số đại biểu”
của Quốc hội, việc thông qua hiến pháp cung cấp rất ít thông tin về thực
trạng chính trị ở Việt Nam. Tuy kết quả kiểm phiếu cuối cùng cho thấy
có kỷ cương Đảng trong số 488 người được chọn lựa kỹ càng có quyền bỏ
phiếu, còn có hàng trăm đảng viên ngang tầm hay có vị thế cao hơn đã và
sẽ tiếp tục cổ xúy những cải cách căn bản. Hiện nay, bất cứ ai có chút
ít hiểu biết về chính trị ở Việt Nam đều biết rằng ở dưới cái vỏ ngoài
đoàn kết và đồng thuận, sự cạnh tranh, sự bất hòa và sự mất đoàn kết bên
trong Đảng (nếu không nói là trong Quốc hội) đang ở mức độ vô tiền
khoáng hậu. Tỉ lệ 98% tán thành hiến pháp sửa đổi sắp bằng với mức độ
“đồng thuận” của Bắc Hàn.
Thứ ba, tuy ý nghĩa lịch sử của quá trình sửa đổi hiến pháp Việt Nam
vẫn còn chưa rõ, chúng ta có đủ lý do để nghĩ rằng những hiệu ứng quan
trọng nhất của quá trình này sẽ không được thể hiện ở các thể chế chính
thức của Việt Nam, mà suy cho cùng các thể chế này chỉ có những thay đổi
hầu như không đáng kể; mà là sẽ được thể hiện ở các thay đổi khá lớn mà
chúng ta đã quan sát được trong văn hóa chính trị của Việt Nam. Lần đầu
tiên trong lịch sử cai trị của Đảng Cộng sản ở Việt Nam, đất nước này
đã chứng kiến sự gia tăng thảo luận chính trị công khai gần như không bị
can thiệp. Với nguồn sinh lực từ một bản kiến nghị ban đầu có chữ ký
của 72 vị trí thức và nhân sĩ có những mối quan hệ lâu đời với đảng và
nhà nước, Việt Nam ngày nay có một văn hóa chính trị sống động hoàn toàn
trái ngược với những gì có thể quan sát được ở Trung Quốc, và cho đến
nay đã chống chọi được sự đàn áp của nhà nước.
Đối với người Việt và nhiều người bạn của Việt Nam, còn đôi chút thất
vọng. Ngay cả những người, như tác giả bài này, thông cảm với các lý
tưởng xã hội chủ nghĩa cũng không thể không thấy thất vọng ít nhiều về
điều dường như là một cơ hội mang tính lịch sử để giải quyết những hạn
chế thể chế căn bản hiện đang kìm hãm Việt Nam. Riêng phần tôi, tôi sẽ
tiếp tục dành tâm huyết và sức lực để hiểu và lý giải rõ hơn các bước
phát triển đương đại ở Việt Nam với tư cách là một nhà phê bình thân
thiện bên cạnh những người bạn trong và ngoài nhà nước hiện đang phấn
đấu vì một tương lai tươi sáng. Việt Nam còn đầy hứa hẹn. Nhưng kết quả
hôm nay khiến ta có lý do để tạm ngừng lại trước khi tiếp tục. Quan điểm
riêng của tôi là thách thức lớn nhất mà Việt Nam đang đối mặt xuất phát
từ sự thiếu tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hệ thống
chính trị của mình; các đặc điểm thể chế mà đã trở thành gánh nặng nặng
nề, phá hoại các nền tảng của sự tăng trưởng nhanh bền vững và công bằng
xã hội.
Hôm trước khi diễn ra buổi bỏ phiếu về hiến pháp, nhà nước Việt Nam
lại ban hành thêm một nghị định nữa hứa phạt những người nói xấu nhà
nước hay đảng trên các mạng xã hội; điều này diễn ra ở một nước mà chỉ
mới cách đây hai tuần lấy được ghế trong Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp
Quốc. Khi được bầu vào hội đồng đó, Việt Nam đã cam kết cổ xúy nhân
quyền trên toàn cầu và ngay tại Việt Nam. Đây quả thực là những giá trị
mang lại nguồn cảm hứng tạo nên hiến pháp đầu tiên của Việt Nam. Thế rồi
có đôi chút oái ăm. Hiến pháp do chính Hồ Chí Minh thẩm định và phê
chuẩn vào năm 1946 có thể nói tiến bộ hơn và ủng hộ nhân quyền hơn hiến
pháp được thông qua nhân danh ông 67 năm sau. Than ôi, quyết định của
ông Hồ sau đó tước mất của Quốc hội bản chất dân chủ của cơ quan này vẫn
còn ám ảnh Việt Nam hiện nay và rất có thể đe dọa các triển vọng tăng
trưởng của nước này.
Ở Việt Nam, và thậm chí trong bộ máy nhà nước của nước này, không
thiếu những người thông minh, có năng lực và tận tụy. Cái mà nước này
thiếu là các thể chế cần thiết cho một nền kinh tế có hiệu năng cao. Với
vị trí địa lý và vai trò đang trỗi dậy của Việt Nam trong thương mại
thế giới, nền kinh tế của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng. Nhưng tốc
độ, những cách phân phối, và chất lượng của sự tăng trưởng đó sẽ còn
đáng ngờ chừng nào nước này vẫn còn được cai trị theo cách không minh
bạch. Có nhiều điều có thể học hỏi từ việc lắng nghe những nhà phê bình
thân thiện ở cả trong lẫn ngoài nước, và trong lẫn ngoài nhà nước.
Đối với những người cố giữ hiện trạng, và những người có thiên hướng
bắt chước thái độ đắc thắng kiểu Trung Quốc cho rằng mô hình độc đảng là
khôn ngoan, việc thông qua hiến pháp và vào hội đồng nhân quyền Liên
Hiệp Quốc là những dịp để dè bỉu những nước khác trên thế giới, đặc biệt
là những nơi ủng hộ chủ nghĩa tự do và dân chủ (được xem là) ‘của
phương Tây’. Thực ra, chủ nghĩa tự do và (nhất là) chủ nghĩa tân tự do
và dân chủ phương Tây đang gặp khủng hoảng ở nhiều nơi; mà Mỹ là ví dụ
điển hình. Nhưng có lẽ có thể rút được bài học từ cả phe Leninist [định
hướng] thị trường lẫn phe tân tự do. Trong cả hai bối cảnh, giới quyền
thế chính trị và kinh tế đã nắm quyền kiểm soát cỗ máy nhà nước để phục
vụ cho các mục tiêu ích kỷ của họ. Điều cần thiết ở cả hai bối cảnh này
là các thể chế và tinh thần hoạt động [chính trị và xã hội] mà có thể
buộc chính trị phải phục vụ nhân dân.
Các hiến pháp có ý nghĩa hay vô nghĩa nhờ vào nội dung thì ít, mà nhờ
nhiều vào mức độ ủng hộ và chấp nhận dành cho hiến pháp đó. Hôm nay ở
Việt Nam, các đại biểu Quốc hội đã bày tỏ các sở nguyện của họ. Người ta
tự hỏi quá trình cải tổ hiến pháp đã có kết quả ra sao nếu như Việt Nam
đã có một hiến pháp khác, một hiến pháp bảo đảm cho người Việt được
quyền có các quyền mà cả hiến pháp 1946 lẫn Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân
quyền đều hứa hẹn. Nếu có một hiến pháp như vậy, người Việt với mọi
thiên hướng chính trị từ tả sang hữu, trong đó có Đảng Cộng sản, có thể
đóng góp vào sự phát triển của đất nước trên một sân chơi công bằng hơn
và minh bạch hơn. Cuộc bỏ phiếu hôm nay có thể được nhiều giới đón nhận
với cảm giác thất vọng. Nhưng về mặt chính trị, Việt Nam hiện nay khá
hơn nhiều so với cách đây chỉ một năm. Việt Nam ngày nay có một môi
trường bàn luận chính trị sống động, nhìn chung không bị can thiệp, và
rõ ràng là đa nguyên.
Sáng hôm qua, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nói trước cuộc bỏ
phiếu rằng sẽ có việc phải làm “sau khi chúng ta thông qua hiến pháp”,
cho thấy trước cuộc kiểm phiếu cuối cùng rằng “gạo đã nấu thành cơm”.
Ông cũng tuyên bố, với vẻ hơi tình cảm ủy mị, rằng giới lãnh đạo ủy ban
hiến pháp của Quốc hội rất trân trọng thậm chí cả nhiều quan điểm bất
đồng đã được trình bày trong và xung quanh quá trình sửa đổi hiến pháp.
Chúng ta hãy hy vọng rằng ông và những người Việt khác thực sự chia sẻ
tình cảm này.
Thay vì trấn áp ý kiến bất đồng bằng các chỉ thị, Việt Nam nên khuyến
khích môi trường bàn luận chính trị công khai mới chớm nở và sự quan
tâm ngày càng tăng của công chúng đối với chính trị. Những người cổ xúy
cải cách, trong đó có tác giả bài này, tin rằng con đường đi đến thịnh
vượng đòi hỏi phải có một hiến pháp thích hợp với những đòi hỏi bắt buộc
về trách nhiệm giải trình và tính minh bạch hơn hiến pháp được thông
qua hôm nay. Có ai bảo chính trị là chuyện dễ đâu. Nhưng, Việt Nam ơi,
đừng tuyệt vọng!
Chào đoàn kết,
JL