Hồi-ký của Bà Ngô Đình Nhu
Nguyễn Vy Khanh
Madame Ngô Đình Nhu
Ở
hải-ngoại, từ giữa thập niên 1980, từ sau cuốn hồi-ký của ông Đỗ Mậu,
các hồi-ký về cái chết của Việt-Nam Cộng-Hòa, về cái chết của Đệ nhất
cộng hòa và anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm, về cuộc chiến chấm dứt ngày
30-4-1975 ở miền Nam, ... đua nhau xuất-bản, tái-bản. Sử liệu thì cũng
có dù giả-chân đầy ra đó, nhưng không thiếu những lời tự biện hộ hoặc tự
đề cao cá nhân và phe nhóm; toàn là lời chót lưỡi của những con người
khi có quyền lực đã không làm gì
hoặc đã nhúng tay vô chàm hay đồng lõa, nay đánh bóng lại cái sai lầm,
cái đồng lõa một thời, và nếu có thủ phạm thì toàn là người đã chết
không còn tự biện hộ hoặc phản pháo lại “đồng đội” được nữa! Và mỗi năm
đến ngày 2 tháng 11, người ta lại tổ chức tưởng niệm người đã chết, chạy
theo khí tiết người bị giết, đăng đàn diễn thuyết, ra sách, viết báo về
những chuyện tưởng chưa bao giờ nghe nhưng thực ra đã nghe đâu đó rồi!
Năm nay là đã 50 năm sau ngày đảo chánh 1-11-1963, công tội đã rõ, nhưng
người ta vẫn chưa thỏa mãn, đặc-biệt người ta mong đợi cuốn Hồi-ký của
Bà Ngô Đình Nhu từ nhiều năm qua – mong đợi có thể vì tò mò và sẵn sàng
“phản pháo, đính chính, chụp mũ” hơn là vì muốn biết Bà Ngô Đình Nhu
nghĩ gì
về những biến cố bi thảm đã xảy ra cho đất nước và cho riêng gia-đình
bà và chồng bà.
Và
cuối cùng, sau gần 47 năm im hơi lặng tiếng, bà viết xong tập hồi-ký
ngày 22-8-2010 tại nhà riêng (Tịnh-Quang-Lâu) ở ngoại ô Rome nước Ý, do
sự thôi thúc của cô gái út Lệ Quyên và con rể Olindo Borsoi (mà bà xem
là do Chúa sắp đặt vì bà đã muốn giữ im lặng, tr. 190), và 6 tháng sau,
ngày 24-4-2011, bà qua đời tại bệnh viện ở La-Mã, tên thánh Maria (bà
trở lại đạo Công-giáo sau khi lập gia-đình), thọ 87 tuổi, sau 48 năm
sống lưu vong. Hôm 2-11-2013 vừa qua tại nhà thờ giáo xứ Việt-Nam ở
Paris, nhân lễ tưởng niệm 50 năm ngày qua đời của Cố Tổng Thống Ngô
Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu, thứ nam của ông bà Ngô Đình Nhu là ông
Ngô Đình Quỳnh đã cho ra mắt quyển sách tiếng Pháp La République du Việt Nam et les Ngô-Đình
( Nền Cộng Hòa Việt Nam và Gia Đình Ngô-Đình) mà hơn một nửa là di-cảo
hồi ký của mẹ ông. Ông đã cho biết lý do ra đời của quyển sách này như
sau: “Cuốn
sách được xuất bản hôm nay có
một phần hồi ức của Mẹ tôi được ghi chép từ năm 1963. Đồng thời chúng
tôi có ý muốn soi sáng một phần của lịch sử hãy còn mù mờ. Một số sai
lầm về hình ảnh của hai anh em họ Ngô mà cả bên Tây Phương lẫn đảng Cộng
sản Việt Nam đã lưu truyền. Từ quyển sách này chúng tôi muốn đem lại
cái nhìn đúng đắn hơn, đồng thời có phần đóng góp của Mẹ tôi với nhãn
quan có phần huyền bí của Bà. Thế thôi!». Chúng tôi được một tín hữu
cùng giáo xứ với bà Nhu ở Paris gởi cho một bản; trong bài này chúng tôi
chỉ ghi lại những điểm đặc-biệt hoặc ít được biết, hoặc theo cách nhìn
và cắt nghĩa của bà Nhu, còn phần thần học tâm linh, sẽ để một dịp khác
hoặc người khác trong ngành bàn đến.
Tập sách 246 trang nhưng phần hồi-ký do Bà Ngô Đình Nhu viết với tựa đề “Le Caillou blanc”
(Viên Sỏi Trắng) được hơn 130 trang (tr. 109-241) kể cả phụ lục 3 bức
thư viết tay chưa từng công bố của ông Ngô Đình Nhu viết gởi cho đồng
môn Ecole des Chartes ở Paris (20-4-1956, Tết 1963 và 2-9-1963) nay vẫn
được giữ ở Văn khố nhà trường này. Phần đầu do hai người con Ngô Đình
Quỳnh, Ngô Đình Lệ-Quyên (tử nạn giao thông, 16-4-2012) và bà Jacqueline
Willemetz dẫn nhập với tài liệu gia-đình
về lịch-sử Việt-Nam từ sau ngày thành lập nền đệ nhất cộng hòa, ngày
26-10-1956, đến cuộc đảo chánh 1-11-1963 và sau đó.
Bà
Ngô-Đình Nhu nhũ danh Trần Lệ Xuân, sinh năm 1924 tại Hà-Nội, thân phụ
là Trần Văn Chương, con Tổng đốc Nam Định, mẹ là Thân Thị Nam-Trân - với
bên ngoại, bà Nhu là cháu ngoại vua Đồng Khánh và là cháu họ vua Bảo
Đại. Bà Nhu gọi ông Bùi
Quang Chiêu là “ông bác” (anh cả của bà nội) bị Hồ Chí Minh ra lệnh
giết một cách tàn ác giết hết cả nhà kể cả 6 người con mà
đứa nhỏ nhất mới 6 tuổi; cả Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân cũng là anh em họ
với thân phụ bà. Bà
học Albert Sarrault, thi đậu tú tài Pháp. Năm 19 tuổi, bà kết hôn với
ông Ngô Đình Nhu ở Hà-Nội ngày 30-4-1943, sau đó ông bà về sống ở Huế.
Không biết khi đặt tựa Viên Sỏi Trắng/Le Caillou blanc cho cuốn hồi-ký, bà
muốn nói thân phận bà bị lịch-sử đối xử như vậy mà vẫn trắng trong, nhỏ
bé, hay muốn tả nỗi lòng trơ như đá, bất nhẫn trước thời cuộc? Thật
vậy, trong hơn nửa tập hồi-ký, bà nói đến chuyện tâm linh, những
chuyện cao xa hơn chuyện thế tục thường tình, về sự hiện hữu của
Thượng Đế và của con người. Mở đầu hồi-ký, bà Nhu
ghi lại lời sách Khải Huyền “Ai có tai,
thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh: Ai thắng, Ta sẽ ban
cho man-na đã được giấu kỹ; Ta cũng sẽ ban cho nó một viên sỏi trắng,
trên sỏi đó có khắc một tên mới; chẳng ai biết được tên ấy, ngoài kẻ
lãnh nhận” (Apocalyse 2, 17). Và thêm lời Thánh Thư Luca : “Ai là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy là người lớn nhất” (Luc 9, 48).
Bà bắt đầu hồi-ký ở chương 1, “Lý lẽ của định mệnh” như sau: “Vào
cuối cuộc đời tôi, sau nửa thế kỷ im lặng, và vì ý nghĩa đơn thuần của
nhiệm vụ, tôi ghi lại những gì cần phải được biết. Đó là sự giải thoát
cho tất cả. Không phải để thỏa mãn tò mò nào đó, nhưng để trả lại những
gì mà định mệnh đã đòi hỏi “kẻ nhỏ nhất” của Thiên Chúa, vào thời điểm
của kẻ đó. Tôi bắt đầu cuốn ký ức này, nếu tôi có thể viết xong được,
cốt để làm cho
người khác hiểu được những đòi hỏi của một chuỗi dài đời-sống đã được
định sẵn trước, nhận ra rằng cuộc sống không bao giờ có hành động trái
với ý muốn của mình, mà trái lại, luôn luôn như là phải như vậy” (tr. 112).
Như
vậy, bà xem thân phận bà như viên sỏi trắng “nhỏ bé” mà định mệnh đã
đặt vào thời đó, nơi đó. Từ suy nghĩ về cuộc đời mình, bà khám phá ra
được Thiên Chúa một cách bất chợt và khủng khiếp. Cái gì thuộc về Tạo
Hóa sẽ trả lại cho Tạo Hóa để thực hiện đầy đủ và tột cùng chương trình
của con người. Định mệnh, đó là cắt nghĩa đơn giản của bà lúc này là lúc
bà đã bắt đầu cảm nhận sống những ngày tháng cuối đời, và trước nay bà
sống một cuộc sống mà
bà không bao giờ nghi ngờ gì.
Bà
ra đời do một bác sĩ người Pháp đỡ đẻ thay vì là một cô mụ người Việt,
ông ta nắm 2 chân trẻ sơ sinh và đánh vào mông thật mạnh cho đến khi đừa
bé khóc ré lên phản đối. Đó là khung cách bạo lực mà bà đến với cuộc
đời này, đã vậy mẹ bà lại thất vọng vì bà là cô con gái thứ hai. Sau bà
là một em trai sẽ khiến mẹ bà càng hất hủi bà - khi cha mẹ bà vào
Sài-Gòn, đã để một mình bà lại cho bà nội nhưng sinh hoạt chung với
người làm, khiến bà bị bệnh nặng. Được
về sống lại với gia-đình, bà lớn lên trong tự tin một cách tự nhiên, dễ
chấp nhận nhưng cũng sẵn sàng đối đầu với thực tại, ở trường cũng như
trong gia-đình, nhưng bà không được yêu thương như chị và em trai, trở
thành đứa trẻ không thể động đến (Intouchable). Khiến về sau bà biết lúc
cần xuất hiện và lánh mặt khi không còn cần thiết, cho đến khi bà phải
đối đầu với Tây phương, thực-dân và đế quốc, bà vốn dè dặt một cách
đặc-biệt. Đối đầu đòi hỏi sự tôn trọng tha nhân, nhưng ở đời không phải
lúc nào cũng vậy, bà thường rút lui, không muốn tấn công ra mặt, cuối
cùng bà chịu sự bất cảm thông hoặc ác ý của kẻ kia.
Năm
17 tuổi, bà gặp ông quản thủ thư viện Ngô Đình Nhu, lần đầu khi đến
thăm gia-đình bà vốn là chỗ thân giao từ kinh thành Huế. Hai người mến
nhau từ việc ông Nhu đến mà cô Trần Lệ Xuân chưa chưng xong hoa vừa đi
mua về theo lệnh mẹ; cô gái đẩy ông Nhu vào phòng đợi nhỏ và dặn chỉ
được đi ra khi cô xong chậu hoa. Sau đó thì chàng tặng sách, nàng hồi
thư – được chàng tặng cho danh hiệu “Bà De Sévigné” vì thư nào cũng dài
hơi và linh hoạt. Chính ông Ngô Đình Diệm quyền huynh
thế phụ (đã mất) đến xin hỏi cưới cô Xuân cho em mình. Sau ngày cưới,
cô Xuân hài lòng thoát gia-đình, đưa theo bà vú, về nhà chồng ở Huế. Vai
trò bà đã thay đổi, hết bị rẻ rúng như ở với cha mẹ, nhất là từ khi anh
cả Ngô Đình Khôi và con trai nối dòng bị Việt-minh giết, con cái bà sẽ
nối dõi tông đường. Bà vú xin thôi việc sau đó vì cảm thấy không thiết
yếu trong khung cảnh sống mới, điều mà bà Nhu sau này tiếc nuối, nhất là
thời gian bị Việt-minh bắt lên rừng và sống ở Đà-Lạt.
Bà
cảm nhận rằng rừng núi Nam-Giao, một nơi thiêng liêng độc nhất ở
Việt-Nam, tượng trưng cho sự đợi chờ Thần Thánh Vạn Năng không tên, của
cả một dân-tộc, trãi qua nhiều tôn giáo. Bà đã du lịch nhiều nơi nhưng
chỉ có Nam Giao là đã cho bà ấn tượng mãnh liệt rằng thần linh đã chúc
phúc cho dân-tộc Việt. Bà không thể lường trước cuộc sống đầy bất trắc
với chồng và gia-đình chồng, nhiều lúc bà trách chồng “dối” bà (không
tiết lộ gì) khi làm chính-trị, bí mật. Ban đầu
ông Nhu thường sang nhà các người anh để trò chuyện, đến bữa ăn ông bà
sang nhà từ đường phía bên kia kinh An Cựu để dùng bữa. Một năm làm quen
với Huế và đại gia-đình nhà chồng, thì bất hạnh xảy đến cho người anh
cả Ngô Đình Khôi và con trai ngày 22-8-1944. Sau đó chồng bà biến mất,
sợ rơi vào tình huống của ông anh cả và ông Ngô Đình Diệm, người anh thứ
ba, cũng đã bị Việt-minh bắt trên xe lửa từ Sài-Gòn về Huế và đưa ra
nhốt ở miền thượng-du Bắc Việt từ tháng 9-1945 đến 12-1946. Ông Diệm
được thả ở Hà-Nội nhờ chồng bà đã gặp ông Hồ, vả lại họ Hồ bí không trả
lời ông Diệm được tại sao lại giết anh cả và cháu của ông. Ông Nhu đã ra
Hà-Nội lúc đó, ở nhà cha mẹ bà và không ai biết ông làm gì lúc đó (bà
Nhu không hay
biết gì, mà ông Nhu cũng không hề kể). 20 tuổi, một mình ở Huế dù có
người làm, bà dần dà thấy chồng bà không những không bảo vệ bà mà còn là
một mối nguy cơ đe dọa bà và tiểu gia-đình bà (tr. 135) – may mà
bà còn có an ủi: ngày 27-8-1945, bà hạ sinh cô con gái đầu Lệ-Thủy. Ông
bà Trần Văn Chương cuối cùng bỏ Hà-Nội (villa bị tịch thu) vào ở Huế,
ông Nhu cũng trở về Huế, nhưng cán bộ cộng-sản đến nhà tìm, bà Nhu đã
khéo léo lần lữa bắt tên này chờ đến phải bỏ về và hẹn trở lại, nhưng
đêm đó ông Nhu phải bỏ trốn, và bà Nhu không có tin tức chồng trong một
thời-gian dài sau đó. Sau ngày 19-12-1946, chiến-tranh lại bùng nổ, bộ
đội Việt-minh cưỡng bách gia-đình bà Nhu phải bỏ nhà cửa sơ tán khỏi
thành phố Huế theo vào vùng họ kiểm soát, trãi qua suốt mùa Đông lạnh lẽo. Cuối
cùng mẹ con bà được một linh-mục Dòng Chúa Cứu Thế đem thuyền đến giúp
trốn về Nhà Dòng, ở nhà kho nơi ông Cẩn đang tạm trú, nhưng hôm sau bà
ôm con 3 tuối theo xe vào Đà Nẵng và mua vé máy bay quân sự vào Sài-Gòn.
Tạm trú ở nhà người chị, bà Nhu vô cùng ngạc nhiên gặp lại chồng bí mật
ở nhà Dòng Chúa Cứu Thế. Sau đó ông bà lên sống ở Đà Lạt, ở nhà người
chị của bà, theo bà là "thời gian hạnh phúc nhất", bà sinh thêm hai
người con trai, Ngô Đình Trác 1947 và Ngô Đình Quỳnh 1952, và cuộc sống
của gia-đình bà tại Đà Lạt tuy giản dị, trong khung cảnh hoang dã nhưng
an ninh, lúc đầu xa rời chính trị. Nhưng rồi bà thừa
nhận bà đã cô độc khi ở đây và viết: "Chồng tôi thường biến mất mà
chẳng nhắn lại gì" (tr. 152).
Từ
khi ông Ngô Đình Diệm, anh chồng bà, được cử làm Thủ tướng từ Pháp về
nhận chức (7-7-1954), ông bà Nhu xuống Sài-Gòn để phụ tá. Ông bà Nhu và 3
con sống tạm nhiều nơi trước khi về ở trong Dinh Độc Lập. Ông Nhu làm
báo Xã-Hộitòa
soạn ngay trong căn nhà nhỏ hẹp. Trong lúc thủ đô Sài-Gòn tình hình
chưa ổn định, phe Bình Xuyên và tay chân của Pháp liên tục quấy phá, bà
Nhu đã thành công một việc ngoài sức tưởng tượng: nhân dịp tướng Nguyễn
Văn Xuân mời ông bà Nhu ăn ở một nhà hàng trong Chợ Lớn, bà Nhu đã hỏi
thẳng ông Xuân tại sao không cách chức tướng Nguyễn Văn Hinh tổng tư
lệnh quân đội, ông Xuân đã thách thức bà Nhu tìm cho được 5 chữ ký thì
ông sẽ thuận theo yêu cầu đó. Bà Nhu tình cờ gặp những người từ Bắc mới
di cư vào, cùng họ vận động những người di cư kín đáo tụ tập rồi giơ cao
biểu ngữ trước nhà thờ Chánh tòa Sài-Gòn ngày 21-9-1954. Dù cảnh sát
Bình Xuyên được mật báo nên đã có mặt ở trại di cư trước với 2 xe tăng,
bà lái chiếc xe hiệu Panhard
đến và tra hỏi tại sao cảnh sát lại cấm cản người dân đi chợ. Đám cảnh
sát bỏ đi, xong trở lại, bà lên xe rồ máy bỏ chạy đến trước nhà thờ nơi
mà những người di cư đang chờ, và họ đã giương cao biểu ngữ ủng hộ kiến
nghị của bà Nhu (đòi hỏi tướng Hinh phải từ chức). Hình ảnh và thông tin
được gởi cho tờ báo tiếng Pháp duy nhất ở Sài-Gòn. Ông Trần Chánh Thành
bộ trưởng Thông tin đã kiểm duyệt không cho báo-chí VN đăng tin đó,
nhưng báo tiếng Pháp đã đăng tải phổ biến thông tin và hình ảnh vụ biểu
dương mà không được phép của chính phủ. Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng
Quốc phòng Nguyễn Văn Xuân đã phải từ chức 3 ngày sau đó, trở thành “nạn
nhân” đầu tiên của bà Nhu (tr. 165). Nội các Ngô Đình Diệm phải cải tổ,
bà Nhu
bị người Pháp với sự giúp đỡ của người Mỹ, ép đưa đi ra
ngoại quốc 3 tháng để Nội các cải tổ được ổn định, và để bà Nhu không
thể ra ứng cử dân biểu Quốc hội lập hiến và lập pháp sau đó. Nhưng vô
ích, vì dù ở xa, bà sẽ vẫn đắc cử, với sự ủng hộ của tập thể người di
cư. Bà sang Hoa-Thịnh-Đốn nơi ông thân bà làm đại sứ ở Hoa-Kỳ, ông đưa
bà đến ăn sáng do thượng nghị sĩ J.F. Kennedy (về sau đắc cử Tổng thống)
mời, sau đó bà ở lâu hơn ở tu viện nữ người Ý ở Hương-Cảng. Bà tận dụng
thời-gian ở đó để học thêm tiếng Anh.
Bà
Nhu trở về miền Nam và vào ở trong Dinh Độc Lập. Sau Trưng cầu dân ý
23-10-1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng thống, mở đầu cho nền
Đệ nhất Cộng-hòa, và cử ông Ngô Đình Nhu chính thức làm Cố vấn
chính-trị – với chức này, ông Nhu đề ra thuyết Nhân Vị đề cao tính siêu
việt của con người, tức sự tái sinh bởi khả năng con người hành xử Đức
độ như Thiên Chúa đã dạy (Mt. 19, 28). Theo bà Nhu, thực dân Pháp chưa
buông tha, rút người về
Cam Bốt, từ nơi đó tổ chức gây rối ở miền Nam. Vụ tiếp theo là vụ ám
sát Tổng thống Diệm ở Ban-Mê-Thuột, có liên quan đến Lê Văn Kim người
của Pháp đào tạo và từng là tùy viên của Thierry d'Argenlieu, đang là
chỉ huy Trường Võ bị Đà-Lạt. Rồi đến vụ đảo chánh 11-11-1960 và vai trò
của tướng Nguyễn Khánh từng là tùy viên của thủ tướng Nguyễn Văn Xuân và
từng tổ chức những buổi pique-nique ở Đà Lạt có bà Nhu và Bảo Đại,
Nguyễn Khánh xưng là đại diện cho nhóm đảo chánh. Bà Nhu tin là do Pháp
giật dây. Bà Nhu đã can thiệp khi thấy tướng Khánh dùng thủ đoạn đánh
điểm yếu của Tổng thống Diệm là thương người và sợ đổ máu. Bà Nhu hối
chồng hất cẳng tướng Khánh và kêu gọi quân lính trung thành về chiếm lại
đài phát thanh. Tướng
Khánh do đó bị đám đảo chánh kết tội phản bội, nhưng đã thua nên phần
lớn bỏ trốn sang Nam Vang. Đại diện CIA gặp anh em Tổng thống Diệm cam
đoan là Hoa-Kỳ đã đứng ngoài vụ đảo chánh, bà Nhu có mặt ở đó đã trách
móc người Mỹ “Tôi không mong chờ các ông đồng minh, tức là bạn, giữ
trung lập trong vụ này!”.
Thái
độ của bà Nhu gây chú ý của Hoa-Thịnh-Đốn. Vụ tiếp theo là chuyến viếng
thăm Việt-Nam của Phó tổng thống Lyndon B. Jonhson ngày 12-5-1961. PTT
Mỹ xuống máy bay, bất chấp nghi thức ngoại giao, thay vì đến chào PTT
Nguyễn Ngọc Thơ trước, ông đã đến thẳng bà Nhu, khiến ông Thơ phải chạy
theo sau lưng ông PTT Mỹ. Trong buổi điểm tâm sau đó do PTT Thơ mời, có
cả ngoại giao đoàn và các dân biểu, ông PTT Johnson thêm một lần gây bối
rối khi mời bà Nhu sang thăm
trang trại của ông ở Texas mà bà Nhu lại từ chối với lý là chưa có dự
tính đó. Vô tình bà Nhu nói dí dỏm sẽ sang thăm nếu ông PTT trở thành
Tổng thống. Không ngờ lời nói đó khích động PTT Mỹ, ông kéo bà Nhu ra
bao lơn nhưng vô tình sức mạnh kéo tay bà Nhu lại kéo luôn phu nhân Chủ
tịch Quốc hội, ông nhìn thấy hớ hênh bèn chữa thẹn rằng muốn bà Nhu giới
thiệu thắng cảnh Sài-Gòn từ bao-lơn. Không ngờ lời nói cho qua chuyện
lại thành sự thật hơn 2 năm sau đó. Năm 1964, ông Ngô Đình Cẩn - thành
viên cuối cùng của dòng họ Ngô Đình còn ở Việt-Nam, bị xử tử sau khi đã
xin tị nạn chính-trị với lãnh sự Hoa-Kỳ ở Huế lại bị giao cho nhóm đảo
chánh dựng tòa án kêu án tử hình. Bà Nhu đã viết thư yêu cầu TT Johnson
can thiệp, nhưng ông đã tỏ ra
“hèn hạ” (tr. 177) - Bà Nhu từng khen ông Cẩn phụ trách cả miền Trung
khiến nơi đó yên bình mà không tốn kém gì cho chính quyền Sài-Gòn (tr.
182). Trước đó, vào mùa Thu 1963 khi sang Hoa-Kỳ “giải độc”, bà Nhu đã
nhận lời mời đến thăm trang trại của hàng xóm của Johnson, Johnson đã
không có hành động gì và trong 1 lá thư duy nhất trả lời thư bà Nhu hỏi
tại sao ông ta có vẻ sợ bà, ông viết ”Làm sao tôi có thể sợ một phụ nữ
tuyệt vời như bà?”. Lá thư này về sau bà gởi lại một người bạn đồng môn
của ông Nhu ở Paris nhờ giữ khi bà Nhu dọn về Rome, đã bị một người đánh
tiếng với con trai trưởng của bà Nhu là sắp chết nên muốn nhìn thấy nó
trước khi chết, nhưng lá thư không bao giờ trở lại - về sau bà Nhu mới
biết người này làm cho
tình báo Pháp.
Đắc
cử dân-biểu, đến năm 1958, bà đề nghị Luật Gia-Đình có mục-đích giải
phóng phụ nữ về mặt pháp lý (một vợ một chồng, nam nữ bình quyền cả
trong quản trị, sử-dụng và phân chia gia sản, thừa kế di sản, v.v.), đã
bị đa số vẫn còn tinh thần gia trưởng, gia tộc hoặc đa thê, phản đối; dù
Hiến pháp 26-10-1956 đã nêu cao nam nữ bình quyền nhưng trong thực tế,
người phụ nữ vẫn phải phục-tùng chồng là người vẫn được xã-hội xem là
giám-hộ. Bà
tổ chức Phong trào Phụ nữ Liên đới (với hình biểu tượng Ngọn đèn dầu
của những cô trinh nữ trong Thánh Kinh) kêu gọi và giúp đỡ người phụ nữ
ra đời làm việc xã-hội, thiện nguyện. Bà Nhu kêu gọi tinh thần tái dựng
lòng yêu nước. Cùng lúc, bà tổ chức lực lượng Phụ nữ bán quân sự
(10-1961) tự nguyện, được huấn luyện tự vệ, sử-dụng vũ khí và y tế
thường thức. Trưởng nữ Lệ Thủy cũng gia nhập lực lượng này từ khi 16
tuổi.
Sáng
sớm ngày 27-2-1962, thêm một vụ chính biến do 2 phi công bắn phá Dinh
Tổng thống. Con cái bà bị thương và bà phải vào bệnh viện vì muốn cứu
con với bà vú của cô út Lệ Quyên. Biến cố khiến bà thêm ghê tởm bọn thực
dân (tr. 180) - bà ghi rõ vụ bắn phá Dinh Tổng thống là do thực dân
(“colon”), sau đó là căn nhà từ đường bằng gỗ của gia-đình Ngô Đình ở
Huế cũng bị phá hủy, do “la rage francaise contre le Việt-Nam que nous
représentions...”(tr.
181).
Xảy
ra vụ Phật giáo, bà Nhu muốn có đại diện các đảng phái và các nhóm
xã-hội trong Ủy Ban Liên Phái, nhưng Tổng thống Diệm không thuận vì
không muốn có bà. Nhưng khi xong Thông cáo chung và bên Phật giáo đã ký,
ông Nhu lại hỏi ý kiến bà trước khi cố vấn Tổng thống ký. Bà thấy lạ vì
các đòi hỏi của Phật giáo đều là những thứ chưa bao giờ cấm, bà đề nghị
ký nhưng ghi tay thêm mấy chữ là những đòi hỏi trong đây chưa bao giờ
cấm. Ông Cố vấn đem
Thông cáo chung đến buổi họp sau đó và nói lại ý vừa kể, ngoại trưởng
Phật giáo Vũ Văn Mẫu yên lặng không nói gì, nhưng Phó Tổng thống Thơ
phát biểu: ”Họ uống trà sâm còn mình uống trà thường khiến mình thành
người ngu”. Vì câu nói này mà ông Mẫu cạo đầu từ chức. Theo bà Nhu cũng
ông VV Mẫu này đến cận ngày 30-4-1975 nghe lời thực dânủng hộ và theo tướng Big Minh (lực lượng thứ 3), nhưng đế quốc
mạnh hơn muốn chấm chấm dứt chiến-tranh (tr. 188)!
Trước
ngày đảo chánh, từ ngày 12-9-1963, bà Nhu và cô trưởng nữ Ngô-Đình
Lệ-Thủy lên đường đi “giải độc” ở Âu châu và Hoa-Kỳ; trước khi xảy ra vụ
ám sát anh em Tổng thống, bà và con gái được đông đảo cảnh sát bảo vệ,
nhưng sau đó thì bị bỏ rơi, may có một gia-đình người Mỹ do 1 linh-mục
giới thiệu, đã giúp đỡ mẹ con bà cho đến khi rời
nước Mỹ đi Rome. Phần ông Cô vấn Ngô Đình Nhu, vài ngày trước đảo chánh
đã gọi cậu Ngô Đình Trác đưa 2 em lên Đà-Lạt và dặn dò khi có biến hoặc
ông Nhu chết, thì phải đưa 2 em trốn vào rừng. Khi xảy ra tiếng súng
đảo chánh, các cô cậu đã chạy trốn vào rừng phía sau nhà, trãi qua một
đêm trong mưa lạnh. Cả ngày hôm sau đi xuyên qua sông rạch để tránh để
lại dấu vết, và cuối cùng đến một nơi trực thăng có thể đáp và chờ đợi.
Chỉ trong vòng ba ngày, mấy đứa trẻ đã thoát khỏi sự nguy hại và tới
được Rome trước khi mẹ và chị cũng đến đó.
Ngày 15-11-1963, bà và con gái rời Los Angeles để đi Roma sinh sống. Bị đế quốc
bỏ rơi, nhưng ở phi trường đầy phóng viên báo-chí và truyền hình. Rồi
lúc ghé Paris, bà cũng được đông đảo báo-chí phóng viên đón như vậy, ông
đại sứ Mỹ ở Paris bí không biết phải trả lời báo-chí ra sao bèn nói
“Chúng tôi có làm gì thì cũng vẫn bị nguyền rủa!”. Nhưng ít có nhà báo
nào dám nói lên hết sự thật, bà Nhu được ông nhà báo Georged Mazoyer dám
bênh phía bà, nhưng ông ta vừa được thăng chức giám đốc một nhật báo ở
Paris ra ban chiều thì liền bị xe đụng chết khi đi bộ. Bà Nhu thấy những
ai đứng về phía bà đều bị biến mất (tr. 189-190): kế đó là bà Suzanne
Labin và Marguerite Higgins (3-1-1966) – được Tổng thống Kennedy gửi
sang Việt-Nam điều tra riêng, bà là tác-giả cuốn Our Việt-Nam Nightmare (1965),
trong đó bà cho rằng biến cố Phật giáo chỉ là một trò đánh lừa
(leurre), mục-đích không vì Phật giáo mà vì muốn lấy đầu ông Diệm và
thay vì bỏ lên mâm bạc như Thánh Jean-Baptiste tử đạo, thì nay phải quấn
cờ Mỹ; và bà nhận xét các sư sãi rất rành tên các phóng viên ngoại
quốc, gọi họ bằng tên/prénom!
Vào
tháng 6 năm 1964, hiệp hội báo chí Hoa-Kỳ tổ chức mời bà Nhu và con gái
Lệ Thủy sang Mỹ làm một vòng để các cơ quan thông tin báo-chí tìm hiểu
sự thật (Truth Rally) về thực trạng Việt-Nam vì các cơ quan này không
tin giải thích của Hoa-Thịnh-Đốn (tr. 71). Lúc đó nước Mỹ chuẩn bị bầu
cử Tổng thống thay thế T.T. Kennedy, chính phủ Mỹ đã từ chối cấp visa
cho 2 mẹ con bà Nhu lấy “lý do an ninh quốc-gia“. Ngày 9-5-1975, khi trả
lời phỏng vấn của đài truyền hình, bà Nhu đã tố cáo
chính quyền Kennedy can thiệp vào Nam Việt Nam là "nhằm tạo thanh thế
và sự ủng hộ cho Đảng Dân chủ Hoa Kỳ".
Bà cũng bình luận cảnh đại sứ Mỹ Martin chờ trực thăng tới đón trên nóc
nhà, cờ Mỹ cuộn dưới nách: “Cường quốc Mỹ dùng để làm gì, nếu không
phải là để phải trốn chạy theo họ?”.
Năm 1985 khi báo-chí Hoa-Kỳ làm kiểm điểm 10 năm Hà-Nội chiếm miền Nam, bà Nhu đã nhận trả lời phỏng vấn cho Newsweek,
nhưng các cơ quan thông tin này đồng lõa với nhau để không ai liên lạc
được với bà (tr. 71). Bà sống lúc tại vùng Riviera nước Pháp, lúc ở nhà
bên Roma, bà trả lời phỏng vấn một lần khác để
lấy tiền và vé máy bay khứ hồi cho con gái út qua thăm ông bà ngoại ở
Mỹ. Bà
Monique Brinson Demery phỏng vấn bà Nhu năm 2005 đánh dấu lần đầu tiên
bà trả lời báo chí phương Tây sau một thời-gian khá lâu, phỏng vấn để
thực hiện cuốn sách về bà Nhu, Finding the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam's Madame Nhu (New York: Public Affairs, 2013), nội-dung cuốn sách cho thấy bà Nhu đã nói chuyện với bà Demery với nội-dung cuốn hồi-ký.
Suốt tập hồi-ký, bà Nhu cho người đọc thấy và hiểu rằng bà căm ghét thực dân Phápvà đế quốc
Hoa-Kỳ(bà
gọi chung là “Occident criminel”). Bà có thắc mắc là ngoài Thánh lễ
khai mạc Cộng đồng Vatican II ngày 2-12-1963 có nhắc ý lễ cầu cho anh em
Tổng thống Diệm, Tòa thánh Vatican đã không lên tiếng và không làm gì
về cái chết của anh em chồng bà (và người mà Tòa thánh giới thiệu giúp
làm giấy tờ cho căn nhà mà Đức Cha Thục mua cho mẹ con bà ở Roma lại lừa
dối cướp hết tiền gia-đình bà). Bà kể có thể đã góp phần (qua một phỏng
vấn ngay trước đó) trong việc khiến cho Hà-Nội đã phải để cho Đức Cha
Nguyễn Văn Thuận, cháu của ông Nhu, ra ngoại quốc chữa bệnh và thoát
cộng-sản; và hơi trách móc Ngài đã không làm gì cho những cái chết của
chồng và các anh em chồng bà.
Bà cho rằng sau ngày 2-11-1963 anh em Tổng thống bị giết, nước Việt-Nam rơi vào địa ngục là do các đế quốc thực dân và cộng-sản(tr. 201). Bà thêm, cái chết của Lệ Thủy con gái bà vẫn chưa được điều tra đến cùng!
Về phần người Pháp, bà gọi là “tên thực dân” (colon) và so sánh với quỷ Satan khi dùng lời Chúa Jesus cảnh báo Thánh Phê-Rô: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của con người”
(Mt 16, 23) – vì thực dân đã lợi dụng danh nghĩa của Giáo hội để làm
chuyện Ác đã khá lâu rồi ở Việt-Nam. Bà Nhu cho người đọc hiểu rằng bao
nhiêu biến cố, đảo chánh, ám sát, v.v. thời Việt-Nam Cộng-Hòa đều là do
bàn tay của thực dân và đế quốc chủ động hết, do đó bà không nói nhiều
đến
những tay sai người Việt của chúng. Bà cho rằng với những gì bà viết
ra, chỉ có đám thực dân là phải tự vấn lương tâm (tr. 190)!
Cuối
cùng là những suy niệm tâm linh cuối đời của bà; bà tạ ơn Chúa đã đoái
nhìn con chiên Việt-Nam qua việc đức Hồng y tân cử của Hoa-Kỳ đã đến
La-Vang ngày 21-8-2009 dâng lời cầu nguyện “Đức Mẹ La-Vang cũng là Đức
Mẹ của quốc-gia Hoa-Kỳ và của giáo hội Công-giáo“. Và bà cảm ơn và hiểu
Chúa đã trao phó cho bà trọng trách làm mẹ và bà đã làm hết mình cho đến
cuối
đời!
*
Trong Phần Phụ lục,
trong lá thư đề ngày 2-9-1963, 2 tháng trước ngày bị giết, ông Ngô Đình
Nhu trình bày lập trường Việt-Nam chính-thực của chính phủ của Tổng
thống anh ông (Việt-Nam của người Việt Nam!) trước âm mưu của Hoa-Kỳ đi
chung với Liên Xô cộng-sản, âm mưu đưa đến phương-tiện thôi miên, tuyên
truyền, huyền-hoặc các sư sãi rồi đẩy những kẻ này vào lửa thiêu sau khi
báo cho thông tín viên quốc tế
biết để đến quay phim, chụp hình (và cản cứu người “tự thiêu”!) (1). Từ
ngày ra thiết quân luật 20-8-1963 thì hết còn tự thiêu, nhưng 2 thế lực
kia lại xúi sinh viên học sinh xuống đường như đã làm ở Đại Hàn và
Thổ-nhĩ-kỳ, nhưng ông Nhu cho là thất bại vì chính quyền bắt đi học quân
sự và tẩy não chúng. Ông Nhu biết 2 thế lực đó chưa ngừng tay vì phải
biện minh với cấp trên về việc chi 20 triệu đô Mỹ (2) cho âm mưu này!
Chú thích:
1-
Sau ngày đảo chánh 1-11-1963, còn có 6 vụ tự thiêu Phật tử khác, nhưng
không báo chí Tây phương nào để ý đến nữa! Và sau ngày 30-4-1975, đã có
biết bao nhiêu kỳ thị, kiểm soát, khủng bố tôn giáo và toàn dân, tù đày,
cướp của dân,... nhưng thượng tọa Trí Quang không có hành động nào, trở
thành câm, lặng, đồng lõa với cộng-sản Hà-Nội! Còn vụPhái đoàn Liên Hiệp Quốc đến VN điều tra về
vụ gọi là «đàn áp Phật giáo», Báo cáo được dịch ra Việt ngữ - Vi Phạm Nhân Quyền Tại Miền Nam Việt-Nam,
do Võ Đình Cường dịch, 1 nhóm Phật giáo xuất-bản năm 1966, từ tay Thích
Trí Quang người đề tựa, nhưng đã bỏ đi phần kết luận (1 thứ lừa dư luận
từ cái thật, lộng giả thành như ... thật!). Đây là Báo cáo 234 trang trình ngày 7-12-1963 của Phái đoàn với kết luận không có đàn áp lẫn kỳ thị tôn giáo,
và những đụng độ với
chính quyền chỉ là do 1 nhóm nhỏ, và có tính cách chính-trị, không phải
tôn giáo. Bản báo cáo bị giấu kín, đến tháng 2-1964, văn bản này đã
được Thượng Viện Hoa-Kỳ xuất-bản.
2-
Ông Nhu tiên đoán đúng, tiếp đó là chi tiền mua chuộc mấy ông tướng
Việt-Nam làm đảo chánh và giết anh em ông ngày 2-11-1963 và sau đó là
ông Cẩn, người em khác! Lou
Conein đưa 3 triệu đồng tương đương 42 ngàn đô la Mỹ cho nhóm tướng
lãnh đảo chánh để chia chác cho nhau, thật ra chỉ là những đồng bạc lẽ
từ 20 triệu đô!
Nguyễn Vy Khanh
Montreal, 11-2013
(E.m.)