Mới đọc hai phần ba lá thư của bà Dương Thu Hương, nghĩ có lẽ bà già thật, sắp lẩm cẩm rồi chăng, vì những chuyện bà đang lập lại trong những bài viết khác, phỏng vấn tôi đã nghe rồi chăng? Bỏ dở, bây giờ đọc phần cuối thì thấy không, bà còn minh mẫn, tuy nhiên bỏ qua phần nói về người đàn bà khác thì lá thư có lẽ hay hơn, lá thư sẽ không còn mang tính chất "những chuyện đàn bà" nữa, hy vọng lần sau bà không nhắc lại, à, mà làm gì có lần sau nữa, bà nói đây là lần cuối cùng.
Dương Thu Hương - viết riêng cho DCVOnline
Trước hết, tôi xin lỗi độc giả vì hai nhầm lẫn trong bài viết “Để gọi tên sự vật một cách rõ ràng”:
1. Nguyễn Văn Hưởng tức Trần, sinh năm 1945, thứ trưởng bộ nội vụ, tổng cục trưởng tổng cục I không phải là đại biểu quốc hội.
2. Cha đẻ của công chúa Mỵ Châu là An Dương Vương Thục Phán chứ không phải Triệu Đà.
Sự nhầm lẫn thứ nhất do nhà báo Huy Đức phát hiện nên tôi phải cảm ơn ông cũng như phải chân thành xin lỗi ông nghị Trần Văn Hưởng (không là thứ trưởng bộ nội vụ, không có biệt danh Trần, và không nhảy lên bụng cô Hồ Thu Hồng).
Sự nhầm lẫn thứ hai được phát hiện do một người bạn đang sống tại Pháp và đối với tôi sự phát hiện này là vô cùng quan trọng vì nó là hồi còi báo động cho tôi biết đã đến lúc tôi phải rút khỏi vũ đài: tuổi già đã tấn công tôi.
Do đó, bài báo này sẽ là bài cuối cùng tôi viết để tham góp vào cuộc đấu tranh chung. Tuy nhiên, trước khi chia tay vĩnh viễn, tôi sẽ có đôi lời với độc giả, trước hết là đối với các anh em đang tiếp tục cuộc đấu tranh dầu sôi lửa bỏng này.
Sự nhầm lẫn gán ghép chức ông nghị cho Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Văn Hưởng tuy đáng tiếc nhưng còn có thể tha thứ vì sự trùng lặp cả tên lẫn họ là vô cùng hiếm hoi. Bản thân tôi cũng từng chịu cảnh này. Tôi vốn coi chính phủ Việt Nam là ổ tham nhũng bẩn thỉu mà trong đó, người lương thiện không có chỗ đứng. Vậy mà lại có một bà Dương Thu Hương chẳng những trùng tên mà còn trùng cả tuổi làm thống đốc ngân hàng, nghĩa là một chức quan không nhỏ trong cái hệ thống những kẻ đục khoét ấy. Khi mẹ bà thống đốc ngân hàng này chết, bạn hữu và anh em dân chủ mang hương hoa đến... viếng mẹ tôi trong khi bà cụ đang ngáy khò khò trên gác. Tôi ngỡ rằng trò chơi cắc cớ này chỉ xảy ra như là sự duy nhất, ai dè còn có trường hợp thứ hai.
Trái lại, sự nhầm lẫn giữa Triệu Đà với An Dương Vương là không thể và không đáng tha thứ. Đó là một sai lầm không thể biện minh: Không ai có thể biện minh cho tuổi già.
Ông tướng Charles De Gaulle có một định nghĩa “Tuổi già là sự chìm tầu”.
Đối với tôi, tuổi già là cây cầu thang dẫn từ ngôi lầu của cuộc sống xuống tầng trệt, nơi nấm mồ đang chờ sẵn. Ta trượt từng nấc trên cây cầu thang định mệnh, rụng rơi dần. Rụng tóc, rụng răng, da dẻ nhăn nheo dăn rúm, hình hài méo mó đi: hoặc nó teo tóp lại như con mắm lẹp, hoặc nó phì ra từ từ để biến thành một cái bị gạo rồi sau rốt, lăn tòm xuống huyệt.
Nhưng sự huỷ hoại thể chất cũng chưa đáng kể bằng sự mất mát này: chúng ta mất dần trí nhớ và sự sáng suốt. Não chúng ta sẽ vận hành với một tốc độ chậm chạp, khật khưỡng như bước đi của người thọt, bởi vì với tháng năm, rất nhiều lỗ hổng xuất hiện trong trí nhớ.
Cổ Loa là nơi tôi qua lại không biết bao nhiêu lần, Mỵ Châu và An Dương Vương là những cái tên từng gây biết bao xúc động trong tâm hồn tôi, vậy mà trong bài báo vừa rồi, tôi lại nhầm tên ông bố chí tình và rủi ro của nàng Mỵ Châu với ông vua Triệu Đà, kẻ thù của Thục Phán An Dương Vương, bố đẻ Trọng Thủy, kẻ đã dùng nam nhân kế để cướp nước Âu Việt.
Một sự nhầm lẫn kì cục đến như vậy chỉ có ông Trời mới tạo ra được thôi, và biết rằng không ai có thể chống lại luật trời, tôi sẽ thực hiện mệnh lệnh của thiên nhiên với sự ngoan ngoãn tuyệt đối: rút lui.
Các đồng đội, những người đấu tranh cho dân chủ sẽ chất vấn:
- Chị đã hứa sẽ đứng cùng chúng tôi cho đến hơi thở cuối cùng, bây giờ chị bỏ cuộc, chị nuốt lời?
Tôi trả lời:
- Tôi không nuốt lời, tôi cũng không bỏ cuộc, nhưng tôi sẽ góp sức vào cuộc đấu tranh bằng cách khác, tương hợp với khả năng, trừ phi tôi mắc bệnh Alzheimer.
Có thể họ sẽ nói:
- Chỉ có những lão già tham quyền cố vị mới bị người đời nguyền rủa, chị không quyền không chức, hà cớ chi phải rút lui? Dù già lão, dù bước đi khập khễnh chị cũng còn giúp được đôi chút, không nhiều thì ít trong cuộc đấu tranh này.
Tôi xin trả lời rằng:
- Những kẻ quyền cao chức trọng bám lấy cái ghế của họ vì những cái ghế ấy làm nảy ra những thỏi vàng, còn tôi, khi dấn thân vào tranh đấu, chỉ được hưởng tù đầy, đe dọa, tước đoạt, nhục mạ và vu khống. Họ và tôi đứng hai bên chiến tuyến. Nhưng chúng tôi có một điểm chung: thân phận người. Đã là con người thì phải suy tàn với thời gian. Hành động thuận theo lẽ trời thì không gây tổn thất cho đời mà cũng không đem lại sự hổ thẹn cho mình. Xứ sở chúng ta đã có quá nhiều người già chống lại lẽ trời, hành động không tính đến liêm sỉ, nói theo lối dân dã: già mà không biết nhục, tôi không thể làm thêm một con số cộng để đứng chung với bọn họ.
Như vậy, mọi sự đã rõ ràng.
Bây giờ, tôi xin trả nốt món nợ cuối cùng, trước khi đặt dấu chấm hết.
Nhà báo Huy Đức có trách tôi, đại ý là tại sao lại bàn quá nhiều về cô gái bao Hồ Thu Hồng, con người này không đáng để tốn nhiều bút mực.
Có thể ông Huy Đức đúng, theo cách suy nghĩ cổ truyền của các nhà nho Việt Nam, nhưng cũng có thể ông Đức sai, nếu tính theo hiệu quả.
Khi chúng ta mô tả một con cái ghẻ nó có mấy cái chân, nó hút máu theo cách nào, nó đào hang và sinh đẻ ra sao... không phải vì chúng ta quan tâm đến bản thân con cái ghẻ mà vì chúng ta quan tâm đến làn da đang bị ghẻ. Làn da ấy chính là hiện trạng của xã hội chúng ta đang sống giờ đây.
Bất cứ xã hội nào cũng được xem xét dưới hai góc độ: thành phần tinh hoa và đại bộ phận dân chúng. Hai bộ phận này không nhất thiết phải liên quan theo cùng một tỷ lệ trong mọi xã hội và mọi thời đại. Nhưng để hiểu một quốc gia, một xứ sở, một dân tộc, bắt buộc ta phải phẫu tích hai thành phần nói trên.
Tôi không cho cô Hồng là một trí thức đích thực, bởi có cố gán cho cô ta chức danh ấy cũng chẳng ai tin, nhưng sự thực là cô Hồng đang giữ chức tổng biên tập của tờ báo Thể Thao TpHCM, vậy thì muốn hay không cô Hồng cũng được xếp vào hạng tinh hoa xã hội. Cứ cho rằng cái ghế này cô có được là nhờ uy lực của tình nhân Nguyễn Văn Hưởng tức Trần, nhưng bấy lâu nay thiên hạ vẫn chấp nhận vị trí này theo cách chính danh, vậy qua đó, liệu ta có thể nhận thức được chất lượng xã hội hay không?
Hồ Thu Hồng là gái bao. Gái bao và gái điếm là nghề bán dâm, hoặc theo thời hạn dài, hoặc theo từng cú. Theo lẽ thường, đã hành nghề này thì phải náu mình trong bóng tối, bởi kẻ mua dâm có một gia đình với tất cả các mối liên hệ chằng chéo xung quanh nó. Y có một người vợ mà y không thể bỏ, bởi bà ta là những cơn si mê ân ái đầu đời, người đã chia xẻ với y những ngày cơm rau muối và là mẹ của những đứa con y, y có những đứa con và những đứa này sẽ phải lấy vợ lấy chồng, sinh con đẻ cái. Không một ai muốn thấy chồng mình, bố mình, ông nội hay ông ngoại mình chường mặt ra ở nơi nhà thổ, bởi hình ảnh đó sẽ gieo những tổn thất không thể cứu vãn.
Vì những lý do cổ truyền ấy mà ngay ở nơi tự do tình ái có thể trượt quá đà như nước Pháp, cũng chẳng có một thứ gái bao nào kêu ổng ổng lên khoe khoang “chiến lợi phẩm” như cô Hồ Thu Hồng. Sự khoe khoang này chỉ có thể xảy ra do hai duyên cớ:
- Hoặc một sự vô liêm sỉ ngoại hạng, ca tối ư đặc biệt.
- Hoặc một bộ não vô năng mà sự vận hành hoàn toàn tuân theo chỉ thị của cái dạ dày và phần dưới rốn. Tôi định nghĩa vắn tắt hơn: suy nghĩ bằng dạ dày và hai quả cật.
Tôi không rõ cô Hồng thuộc loại nào, nhưng tôi đề nghị nhà báo Huy Đức suy nghĩ lại: Thứ nhân cách như vậy được xếp vào bộ phận tinh hoa thì xã hội của chúng ta được xếp vào loại nào, và điều ấy liệu có khiến mọi người hổ thẹn hay không?
Sự hổ thẹn là một trong các phẩm tính của con người, theo nghĩa chân chính của từ này. Nó là kết quả của quá trình giáo dục và sự tự nhận thức, là rào cản vô hình để nhắc nhở con người dừng lại một khi các ham muốn không lành mạnh thúc đẩy họ. Khi cái bộ phận kiềm chế dục vọng này bị mất đi, con người sẽ trượt xuống dốc như chiếc xe không phanh, vô thức hay hữu thức.
Vô thức, nếu họ không đủ trí khôn để hiểu sự việc. Hữu thức, khi họ không chống nổi bản thân: quyền, tiền, tình dục trở thành các ông chủ tuyệt đối khống chế họ. Theo sự quan sát của tôi từ mấy chục năm nay, sự hổ thẹn là thứ thiếu vắng nhất trong xã hội Việt Nam, điển hình ở tầng lớp lãnh đạo. Xin nhắc lại ba sự kiện gây ấn tượng đặc biệt đã khắc sâu vào trí não tôi.
Một.
Trước khi bị bắt (1991) vài năm, tôi giao du với một số đại biểu quốc hội. Một lần, họ kể rằng ông Đỗ Mười lên đọc diễn văn, nửa chừng, bỗng nhiên sửa gọng kính chăm chú cúi xuống nhìn văn bản rồi dõng dạc nói: “A! Chỗ này chúng nó bảo nghỉ”.
Không cần giải thích, bạn đọc cũng sẽ hình dung ra sự việc. Diễn văn do thư kí viết, người này hẳn biết rõ trình độ ngôn từ của thượng cấp, với nhã ý giúp cho nghệ thuật hùng biện của nhà cầm quyền được nâng cao nên ông ta chua dấu “(nghỉ)” để nhắc nhở đấng bề trên. Chẳng ngờ đức vua dốt đến mức đọc oang oang “A! Chỗ này chúng nó bảo nghỉ” trên diễn đàn.
Nghe xong chuyện, tôi hỏi “Thế lúc ấy, mọi người phản ứng ra sao?” Hai nghị sĩ này cười bảo “Cúi đầu bấm bụng cười chứ còn biết làm sao”. Tôi hỏi tiếp “Vua ngu thế mà các quần thần không biết hổ thẹn à?” Họ im lặng.
Chúng ta biết danh từ “nghị gật” vốn đã có từ lâu, không cần đợi đến thứ “đại biểu quốc hội” của chế độ này. Nó là sản phẩm ở những xã hội mà nền dân chủ thực sự chưa hiện diện.
Hai.
Năm 1986, ông Tố Hữu bay mất chức phó chủ tịch thứ nhất phụ trách kinh tế, bởi trong năm năm cầm quyền (1981-1986) ông đã dẫn đất nước đến tình trạng lạm phát, cơn lạm phát này khiến toàn dân phẫn nộ bởi trong chốc lát họ trở thành kẻ trắng tay.
Hồi đó, một bà già khóc lóc bảo tôi “Mấy chục năm trước bán nhà, nghe chính phủ dụ dỗ gửi tiền vào ngân hàng, đổi tiền đi đổi tiền lại, giờ cả cái nhà gỗ năm gian chỉ còn đủ mua một gói mì chính 500 gram”.
Tuy nhiên, mất chức cũ ông Tố Hữu lại chuẩn bị để leo lên chức cao hơn: tổng bí thư, theo thông lệ đá hất lên của đảng.
Thế nào là đá hất lên? Tôi sẽ giải thích vắn tắt vì biết rằng các thế hệ sinh sau không hiểu nổi ý nghĩa của cụm từ này.
Đá hất lên nghĩa là bổ nhiệm một kẻ vừa bị huyền chức do các lý do vô năng hoặc vô đạo đức (ăn cắp, ăn cướp, giả mạo giấy tờ, ngủ với vợ người khác...) ở một chức cao hơn, quan trọng hơn, nhiều lợi nhuận hơn chức vừa mất.
Ví dụ: Vụ phó tại bộ văn hoá vì hủ hoá mà mất ghế thì sau đó vài tháng sẽ được bổ nhiệm làm Vụ trưởng tại Bộ Giao thông vận tải. Hoặc là, cục trưởng thuộc bộ Y tế phạm tội tham nhũng thì sau thời gian “kỷ luật đảng” sẽ được đẩy lên thành thứ trưởng Bộ Ngoại thương, vân vân và vân vân...Vì sao?
Vì mọi thay đổi nhân sự đều nằm trong tay Ban tổ chức đảng, trực tiếp dưới sự chỉ huy của ông Lê Đức Thọ, mà ông Thọ, như mọi người đã biết, để củng cố quyền lực bản thân nên chỉ bổ nhiệm những kẻ tuyệt đối trung thành với ông ta. Vì thế, dù phạm tội nặng đến đâu, nhưng sau vài tháng làm kiểm thảo, đám cán bộ phạm tội đều được Anh Lớn đưa lên bệ phóng để tiếp nhận các chức vụ quan trọng hơn, nắm trong tay nhiều quyền lực hơn. Lối bổ nhiệm kiểu này tiếp thu từ các triều đình xưa (thuật dụng Nhân) và từ các băng mafia thời hiện tại.
Như thế, ông Tố Hữu sau khi ngã ngựa, liền hăm hở bắt tay vào việc chuẩn bị một cú “đá hất lên” bởi lúc ấy ông Lê Duẩn tỏ ra vô cùng sủng ái nhà thơ Huế. Để bày tỏ lòng trung thành với ông Lê Duẩn, ông Tố Hữu hạ lệnh cho ban tuyên giáo dẹp những lời ca ngợi “ông cụ” (Hồ Chí Minh) mà chuyển sang ca ngợi anh Ba (Sáng suốt như “nghìn ngọn nến” là biệt danh ông Lê Đức Thọ đặt cho ông Lê Duẩn từ đầu thập kỉ 60 để đánh dấu mối liên minh nhằm hạ bệ ông già họ Hồ).
Cùng với việc thay đổi thần tượng, ông Tố Hữu liên tục đi thăm các tỉnh để mở chiến dịch vận động cho mình. Một trong các địa điểm đầu tiên ông đến thăm là Hải Phòng, lúc đó ông Đoàn Duy Thành đang giữ chức bí thư thành uỷ. Trong chuyến du ngoạn thành phố Hoa phượng đỏ nhà thơ lớn khoan khoái công bố bài thơ mới, trong đó có câu:
“Làm ăn” – hai chữ, à ra thế!
Bài thơ ấy được ngâm đi ngâm lại không nghỉ trên đài phát thanh với giọng thánh thót của các nghệ sĩ ưu tú nhất quốc gia. Mỗi lần nghe, một lần tôi sởn gai ốc. Tôi đang sống trong một chế độ mà những kẻ có quyền định đoạt số phận non sông là hạng người hoàn toàn vô năng và vô sỉ. Một ông quan đầu triều, kẻ nắm trong tay nền kinh tế quốc gia nghiễm nhiên công bố rằng ông ta không có chút hiểu biết nào về kinh tế, và sự ngu dốt này lại được trưng bầy một cách vô cùng duyên dáng qua con đường...nghệ thuật.
Thêm nữa, sau các tổn thất tầy trời gây cho dân chúng, ông quan này không mảy may hổ thẹn, không một ly sám hối, tiếp tục cuộc vận động để leo lên một chiếc ghế cao hơn. Nếu các công dân Việt Nam có ý thức, ắt họ phải rùng mình vì bấy lâu nay họ đang lênh đênh trên một con tầu mà các hoa tiêu là một đám người nham nhở suốt đời không hề đặt tay lên bánh lái.
Hoàn toàn vô năng và biết mình vô năng mà nhơn nhơn nắm quyền lực, hành xử đó vừa biểu đạt sự khinh bỉ dân chúng vừa chứng tỏ sự khinh bỉ chính mình. Nơi nào lòng hổ thẹn vắng mặt thì sự vô liêm sỉ lên ngôi. Sau các thất bại nghiêm trọng trên lĩnh vực tài chính, ông Tố Hữu không hề mở miệng nói một lời xin lỗi dân, đảng của ông ta cũng vậy.
Chỉ có ở một xứ sở điên như Việt Nam hoặc các nước trung phi vừa thoát thai từ tình trạng bộ lạc mới có loại lãnh đạo kiểu này. Chúng ta, những người được gọi là nhà văn nhà báo trong một quốc gia như thế, chúng ta có nên nhục hay không hở ông Huy Đức?
Ba.
Trước kia, cảng Hải Phòng là cảng quan trọng số một của đất nước, bởi hàng hoá xuất hay nhập đều dồn vào đó (đương nhiên, hàng nhập khẩu là chính). Khu vực nhà kho của cảng là khu vực được bảo vệ nghiêm cẩn nhất vì đó là tài sản quốc gia, đồng thời cũng là nơi tiếp nhận hàng viện trợ quân sự (vũ khí và quân trang).
Vào ngày mà hoả hoạn xảy ra tại Khu Nhà kho này, một cuộc hoả hoạn lớn chưa từng thấy, gây tổn thất vô cùng nghiêm trọng cho nhà nước, ông thủ tướng Phạm Văn Đồng đi xuống thực địa để quan sát. Hành động duy nhất của ông ta là khóc! Ông khóc ròng rã hồi lâu, chẳng nói một lời, trước sự im lặng của đám người tháp tùng và đám cán bộ phụ trách cảng.
Vì sao ông khóc? Chắc hẳn ông biết rằng vụ hoả hoạn này không thể xẩy ra do sơ sót ngẫu nhiên mà trái lại, nó được chuẩn bị một cách chu đáo trước khi thực hiện. Ai có thể làm được việc đó nếu không phải chính người của guồng máy quyền lực? Ăn cắp, sau đó gây hoả hoạn để phi tang.
Thủ đoạn này được nhắc lại nhiều năm sau tại Sài Gòn, nếu ai có trí nhớ tốt hẳn chưa quên vụ cháy ngôi lầu nhiều tầng, đó là khu trung tâm thương mại thành phố.
Sau khi khóc chán chê, trên đường về, ông Đồng thú nhận với các nhà báo tháp tùng rằng tuy là thủ tướng nhưng ông ấy chẳng có thực quyền, rằng ông ấy rất đau lòng nhưng chẳng biết làm gì cả...
Thông thường, các chính trị gia thích sắm vai khôn ngoan (sự khôn ngoan được chuẩn bị thường trực để trưng bầy) và đạo đức (đa phần là giả mạo). Họ cũng tìm mọi cách che dấu khuyết tật của mình. Ông Phạm Văn Đồng trong phút xúc động đột xuất bộc bạch tâm tư. Kể ra, về phương diện con người, thế cũng đáng khen. Chỉ tiếc rằng sau khi thú nhận mình sắm vai con rối, rằng mình nhu nhược, vô năng, ông ấy vẫn tiếp tục ngồi ghế thủ tướng hàng chục năm nữa mà không mảy may có ý định về hưu, tưới hoa hồng, vun gốc mai như nhiều vị quan có tư cách thời xưa.
Như thế, hàng chục năm đất nước tiếp tục bị điều hành bởi một đám nha lại núp sau áo ông thủ tướng bù nhìn, bị đục khoét bởi các vụ tham nhũng mà ông thủ tướng bất lực kia không hề hay biết và sự thối rữa của bộ máy quyền lực xảy ra một cách bạo hành mà chẳng một ai đứng ra giải quyết.
Thưa bạn đọc, ba ví dụ trên liệu đã đủ để chứng mình rằng sự hổ thẹn đã thường xuyên vắng mặt trên đất nước chúng ta? Rằng sự vắng mặt này đã xẩy ra từ lâu, từ rất lâu, mà không một ai để ý đến?
Vì sao có tình trạng này ?
Vì hai duyên cớ.
- Tính cường bá và lòng tham lam vô tận của kẻ cầm quyền.
- Sự cam chịu đến tê liệt của dân chúng.
Dân ta thường tự hào rằng mình đã thắng hai đế quốc lớn, mà quên rằng mục đích mọi cuộc tranh đấu đều chỉ nhằm mang lại tự do và hạnh phúc cho con người. Nếu không đạt được hai mục tiêu ấy, mọi cuộc đấu tranh chỉ là trò xẻo thịt, cắt đầu hoàn toàn vô nghĩa. Thế giới phương Tây quan sát xứ sở chúng ta, và họ liệt Việt Nam cũng như nhiều nước châu Phi vào loại nước hậu thuộc địa mà hiện tượng không tránh khỏi là hiệu ứng gương.
Thế nào là hiệu ứng gương?
Gương, theo nghĩa thông thường biểu hiện trung thành hình ảnh nó phản chiếu (loại trừ loại gương đặc biệt làm méo hình ở các nơi giải trí). Nếu mặt bạn tròn thì hình ảnh trong gương sẽ tròn, nếu bạn có chiếc nốt ruồi trên cánh mũi thì nốt ruồi đó sẽ hiện đúng vị trí ấy trên mặt bạn khi soi gương.
Hiệu ứng gương đối với các nước hậu thuộc địa là sau khi giành lại được độc lập từ tay các thực dân như Anh, Pháp, Tây Ban Nha... các chính quyền bản địa lại lặp đúng hình mẫu cũ. Có nghĩa là họ sẽ trở thành những tên thực dân cai trị dân tộc họ, nhiều khi còn độc ác hơn bọn thực dân chính thống do đặc tính cường hào, chánh tổng, tù trưởng bộ lạc (kẻ cầm quyền trong các cộng đồng nhỏ, cách biệt nền văn minh chung) thêm vào đó là lối hành xử dã man của những kẻ chưa có ý thức về quyền con người.
Anh em đấu tranh cho dân chủ đều biết tướng Trần Độ, khi còn sống đã nói “Nếu nhà tù Pháp thời xưa mà giống nhà tù cộng sản bây giờ thì bọn tớ chết lâu rồi, làm gì còn có người vượt ngục”.
Lời nhận xét này là một trong những lý do mà chế độ Hà Nội căm ghét ông, đương nhiên, cũng là lý do để chúng tôi cảm phục ông. Sự thành thật là điều vô cùng hiếm hoi dưới chế độ cộng sản.
Tại sao hiệu ứng gương xảy ra ở Việt Nam cũng như nhiều nước châu Phi?
Có nhiều lý do, nhưng lý do căn bản nhất là dân trí thấp. Để dễ dàng nô lệ hoá dân chúng, nhà cầm quyền Hà Nội đã áp dụng chính sách ngu dân một cách tối đa. Thời tôi còn trẻ, không một ai được nghe radio ngoại quốc, toàn dân chỉ được nghe đài Hà Nội, và lời lẽ của kẻ cầm quyền là nguồn thông tin duy nhất mà họ buộc phải chấp nhận. Chỉ các cán bộ cấp cao mới được ưu tiên nghe đài... Trung Quốc.
Về mặt vật chất, hẳn nhiều người còn nhớ những thập kỷ triền miên dân chúng sống với mớ tem phiếu, với các khẩu phần thức ăn của súc vật, với tình trạng bị đầy ải, bị hành nhục vì mỗi miếng ăn.
Khi con người bị vây hãm giữa nỗi thiếu thốn trường niên và một đời sống tinh thần ảm đạm, họ không thể trở thành con người thật sự, bởi toàn bộ nghị lực và thời gian của họ chỉ dùng để vật lộn với sự bần hàn. Họ không sống mà sống sót. Từ tình trạng sống sót lay lắt này, họ sẽ dễ dàng thoả mãn một khi cái bụng được đầy hơn, manh áo mặc được ấm hơn.
Ở châu Phi, nơi cái đói rình rập thường xuyên, điều này dễ dàng minh chứng. Ở Việt Nam, sau hai cuộc chiến tranh, sau rất nhiều chết chóc, thương vong, bệnh tật, người ta dễ dàng đi đến sự chấp nhận này: “Miễn là được sống!”, “Dẫu sao cũng còn hơn thời chiến tranh, sốt rét quanh năm, ăn rau rừng xanh rớt mặt”.
Đó là một hiện thực mà chúng ta dẫu muốn chối bỏ cũng không được. Hiện thực đó là một miếng mồi ngon, một mỏ vàng lộ thiên mà kẻ cầm quyền không bỏ lỡ cơ hội, họ đã khai thác triệt để tâm lý tiêu cực này. Sự thèm khát một đời sống an toàn luôn luôn dẫn dân chúng đến sự hèn nhát, từ hèn nhát đến hèn hạ là một khoảng cách không xa.
Từ những năm 1780, cách chúng ta hơn hai thế kỉ, nhà cách mạng Pháp Jean-Paul Marat đã nói rằng “La trop grande sécurité des peuples est toujours l’ avant-coureur de leur servitude”.
Dịch đại khái là “Sự an toàn thái quá của dân chúng là kẻ dẫn đường cho sự nô lệ của họ”.
Khi đọc những dòng này, tôi không khỏi chua xót. Chúng ta đang ở giai đoạn mà các dân tộc văn minh đã bỏ qua từ hai trăm năm trước.
Nhưng chấp nhận sự thực không có nghĩa là cam chịu sự thực đó như một hiển nhiên. Một dân tộc chậm tiến muốn thoát khỏi tình trạng ấy trước tiên phải đủ dũng khí nhìn thẳng vào sự nhục nhã của mình. Không biết hổ thẹn, không có cách nào thay đổi được số phận. Tình trạng thiếu vắng sự hổ thẹn của những người cầm quyền Việt Nam xảy ra lâu nay là do, trước hết, cơ cấu xã hội độc quyền tạo nên và dung dưỡng tâm lý tham lam, kiêu ngạo. Thêm nữa, bản thân họ không có khái niệm về tinh thần trách nhiệm, không được giáo dục đầy đủ để thấu hiểu lòng tự trọng cũng như tính liêm sỉ. Sau cùng, vì dân chúng im lặng cúi đầu. Sự im lặng này chỉ có thể giải thích bằng hai lý do: hèn nhát và ngu dốt.
Hèn nhát, bởi chính phủ cộng sản đã thế chân những tên thực dân Pháp mà cai trị họ, theo một hình mẫu còn khốc liệt hơn, tàn bạo hơn hình mẫu cũ. Sự cai trị này khiến dân chúng tê liệt vì sợ hãi. Người Việt Nam vốn là những người lính dũng cảm trong các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm lại là những công dân hèn nhát trước sự hà hiếp của những tên thực dân cùng nòi giống, bởi vì họ chưa hiểu biết về quyền công dân cũng như quyền con người.
Ngu dốt, bởi từ hàng ngàn năm nay họ bị ảnh hưởng một cách sâu sắc đạo Khổng. Lý thuyết của Khổng tử là loại dây trói bằng mây, vô cùng dai, buộc họ vào một hệ thống giá trị lỗi thời, nói chính xác hơn, một hệ thống giá trị phản động.
© DCVOnline