Thứ Năm, 23 tháng 12, 2010

Hết thuốc chữa

Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện sau mấy chục năm trời nếm mùi cộng sản, đã nói: “Vô sản không đáng sợ bằng vô học”. Tôi nói thêm: “Vô học không đáng sợ bằng vô đạo”. Chính sách cai trị của Đảng Cộng Sản quá sức bất nhân, không còn một chút đạo lý nào nữa. Dù là đạo lý mà Ông Tổ của họ – Karl Marx – đã từng phán như sau: “Chỉ có cầm thú mới quay lưng lại trước nỗi bất hạnh của đồng loại và lo chăm chút cho bộ lông của chúng”. Đảng Cộng Sản Việt Nam không những quay lưng trước nỗi bất hạnh của đồng loại, mà chính họ là gieo rắc sự bất hạnh cho đồng loại, đồng bào. Bây giờ sắp sửa bước qua thập niên thứ hai của thiên niên kỷ, chủ nghĩa cộng sản đã bị cộng đồng nhân loại lên án, nhưng những lãnh đạo Cộng sản Việt Nam vẫn cương quyết tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa thì rõ ràng : HẾT THUỐC CHỮA!



“Đảng Cộng Sản Việt Nam là một đảng cướp”. Đó là lời phát biểu dõng dạc của cựu Đại tá Quân đội Nhân Dân Phạm Quế Dương trên hệ thống truyền thanh quốc tế. Ông Phạm Quế Dương là một thanh niên ái quốc như hàng trăm ngàn thanh niên Việt Nam yêu nước khác tham gia Việt Minh kháng chiến chống Thực dân Pháp, rồi trở thành đảng viên cộng sản. Ban đầu, thanh niên Việt Nam tham gia đảng cộng sản là để thể hiện lý tưởng yêu nước của mình – chống Thực dân Pháp giành độc lập. Nhưng khi đã trở thành đảng viên rồi thì người đảng viên cộng sản không được quyền yêu nước, mà phải yêu đảng. Yêu nước là phản động. Có lẽ cũng có nhiều đảng viên cộng sản nhìn ra bản chất “ăn cướp” của chủ nghĩa cộng sản, nhưng không dám công khai nói ra, không dám trả lại thẻ đảng. Vì thời ấy đi vào đảng cộng sản bằng hai chân; nhưng ly khai khỏi đảng cộng sản thì nằm trong sáu tấm ván hòm.

Trong thời kỳ còn đang đánh nhau với Pháp, ông Hồ Đắc Liên – em trai Tiến sĩ luật khoa Hồ Đắc Điềm và anh trai Tiến sĩ dược khoa Hồ Đắc Ân – một thanh niên thành tài ở Pháp về nước chiến đấu chống quân xâm lược Pháp, đã từng hâm hực nói với các đồng đội: “Được rồi! Đánh xong giặc Pháp, bọn cộng sản này sẽ biết tay ta”. Cái “đểu” của cộng sản đã có người phát hiện rất sớm sủa.
Trên mặt lý thuyết, chủ nghĩa cộng sản vô cùng hấp dẫn đối với tuổi trẻ có lòng yêu nước, có lòng yêu thương đồng loại. Đúng thế! Ai mà không muốn có một xã hội công bằng, ai không muốn triệt tiêu sự bóc lột? Ai cũng muốn được đối xử bình đẳng, được quyền mưu cầu hạnh phúc, làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu. Nhưng trong thực tế, chủ nghĩa cộng sản kiến tạo một bộ máy độc tài chuyên chính, cướp của giết người mà bất cứ một người Việt Nam nào dù Quốc hay Cộng đều chứng kiến tận mắt. Cho nên, chàng trai người Nam Tư Molivan Djilas – tác giả cuốn sách nổi tiếng “Giai Cấp Mới” (The New Class) – với trái tim đầy nhiệt huyết đã hăng say hoạt động cho lý tưởng cộng sản; nhưng qua sự nếm trải thực tiễn đã thú nhận rằng: “Hai mươi tuổi mà không theo cộng sản là không có trái tim; bốn mươi tuổi mà còn theo cộng sản là không có bộ óc”. Con tim có thể làm bộ óc mê muội, nhưng khi đủ trí khôn, đủ trí phán đoán thì phải tỉnh ngộ để biết phân biệt cái ác, cái thiện!

Từ năm 1953 trở đi, khi cuộc đấu tố long trời lở đất trong cuộc cải cách ruộng đất xẩy ra giết chết hàng vạn sinh linh, tiếp theo cuộc di cư của đồng bào từ Bắc vĩ tuyến 17 phải bỏ mồ mả cha ông, ruộng vườn vào Nam sinh sống; sau vụ trí thức, văn nghệ sĩ của phong trào Nhân văn Giai phẩm bị đầy đọa mà vẫn còn có người mơ hồ về chủ nghĩa cộng sản, vẫn bám theo Karl Marx, Lénine thì con người đó vừa không có trái tim vừa không có bộ óc.

Năm 1951, dù đang là đứa bé 11 tuổi, tôi đã hai lần chứng kiến tận mắt sự tàn bạo của cộng sản. Làng tôi ở giống như vùng tề xôi đậu ngoài Miền Bắc. Lính Bảo Vệ của thực dân Pháp và du kích cộng sản hoạt động đan xen như răng lược. Một buổi sáng tinh sương, trên đường đến trường, tôi thấy một đám đông chừng mươi người đứng lố nhố, bèn tò mò đến xem thì thấy hai tên du kích giữ hai tay một người đàn ông lực lưỡng và một tên du kích khác hươi cái mã tấu chém bay đầu nạn nhân. Chiếc đầu lâu rơi xuống đất, hai mắt mở trừng trừng, nạn nhân còn vùng chạy được khoảng hai thước mới đổ xuống, dòng máu tươi nơi cổ phun thành vòi lai láng. Cuộc hành quyết đó xảy ra tại Chợ Mai. Nạn nhân là người phu xe kéo (thời đó chưa có xe xích lô) tên Chu, ở làng Phổ Nam. Ông Chu bị khép tội Việt gian, vì kéo xe cho Pháp. Một lần khác cuộc hành quyết xảy ra giữa ban ngày tại nghĩa trang hoang vắng. Một người học trò ước chừng hơn tôi vài tuổi, đi ngang qua làng bị hai tên du kích tên Sua và Cù bắt. Người học trò mặt mũi trắng trẻo khôi ngô, mặc chiếc quần đùi mầu xanh nước biển và chiếc áo sơ-mi trắng có dắt hai cây bút nguyên tử mầu xanh, mầu đỏ trên túi áo trước ngực. Hai tên du kích Sua và Cù nghi cậu học trò đó làm điểm chỉ viên cho Pháp vì hai mầu xanh, đỏ của cây bút nguyên tử trên túi áo trắng là dấu hiệu cờ tam tài xanh trắng đỏ của Pháp. Cậu học trò vừa khóc vừa khai rằng cậu đang học ở trên phố, vì được tin cha là Trung đoàn trưởng Vệ Quốc Đoàn đóng quân tại làng Mậu Tài nhắn về thăm. Mặc dầu bị hai tên du kích tra khảo, mặt mũi sưng phù, trước sau cậu học trò vẫn giữ nguyên lời cung khai đó. Một hồi lâu, có lẽ vì mất kiên nhẫn, tên du kích lấy hòn đá khá lớn đập vỡ sọ người học trò. Về sau, vì nóng lòng không nghe tin tức con, vị Trung đoàn trưởng Vệ Quốc Đoàn phái thủ hạ đi tìm thì biết con mình bị đồng chí du kích cộng sản đập vỡ sọ chết! Hai cảnh tượng kinh hồn man rợ đó cứ ám ảnh tôi mãi cho đến ngày hôm nay. Nếu độc giả nào lớn tuổi, từng sống ở Nam Phổ, huyện Phú vang, tỉnh Thừa Thiên đọc đến đây đều biết chuyện cộng sản hành quyết ông phu xe kéo tên Chu và cậu học trò con vị Trung đoàn trưởng Vệ Quốc Đoàn.
Năm 1953, nghe tin hai ông bác và một ông chú của mình bị giết chết một cách nhục nhã trong cuộc đấu tố cải cách ruộng đất, tôi càng kinh tởm cộng sản hơn. Phải chi chú bác tôi làm mật thám cho Tây mà bị giết cho cam! Một người bác là vị quan Thượng Thư nổi tiếng thanh liêm – phụ thân của Hùm Xám Đặng văn Việt – (1) dưới triều Nguyễn, từng được Hồ Chí Minh mời làm Bộ trưởng trong Chính phủ Liên Hiệp. Một người bác khác là vị quan Tham Tri được mời làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt (một tổ chức ngoại vi của cộng sản). Bằng trực giác, chứ chẳng phải có hiểu biết gì, tôi đã lo sợ nước mình mà cộng sản thắng thế thì đại họa khôn lường. Tại sao nhà thông thái Nguyễn Khắc Viện có cha cũng là một vị quan Tế Tửu cực kỳ thanh liêm bị cộng sản giết trong cải cách ruộng đất, mà vẫn nhắm mắt đi theo cộng sản? Có phải tầng lớp trí thức như Nguyễn Khắc Viện bị quỷ ám chăng?

Nói rằng chủ nghĩa cộng sản là sự chọn lựa của nhân dân Việt Nam là cách nói hàm hồ, nói lấy được. Nếu đúng như thế thì tại sao đảng cộng sản lúc ban đầu phải giấu cái đuôi cộng sản của mình? Phải đổi tên thành đảng Lao Động? Chẳng qua Việt Nam bị hứng chịu thảm họa cộng sản là do sự tham lam ngu dốt của Thực dân Pháp và sự mù quáng của một số thành phần trí thức như bác sĩ Nguyễn Khắc Viện. Cộng thêm là sự may mắn mà thôi, chẳng phải tài cán gì.
Nếu Thực dân Pháp sáng suốt như Thực dân Anh để nhận ra rằng chính sách thuộc địa sẽ phải tới ngày cáo chung thì Việt Nam ta không bị rơi vào tay cộng sản. Bằng cớ là tất cả các thuộc địa của Anh không bị cộng sản thống trị. Thực dân nào cũng tàn ác như nhau, chỉ khác ở chỗ một bên thức thời và một bên u tối thôi. Nếu trí thức Việt Nam hiểu được rằng chủ nghĩa cộng sản là một chủ nghĩa quốc tế chỉ biết phục vụ quyền lợi quốc tế, chứ không phục vụ quyền lợi quốc gia dân tộc thì không đời nào họ đứng ra hô hào lôi cuốn quần chúng đi theo cộng sản. Sở dĩ chủ nghĩa cộng sản thành công trên đất nước Việt Nam là vì thành phần mang danh trí thức chỉ có trái tim mà không có bộ óc! Và sau khi chứng kiến cái gian dối, cái độc ác của cộng sản rồi cũng không dám từ bỏ hàng ngũ!

Nếu cụ Trần Trọng Kim biết được cộng sản là mối tai họa cực kỳ ghê gớm cho dân tộc Việt Nam thì cụ đã đồng ý làm theo đề nghị của viên Đại sứ Nhật bản để diệt không còn một mống cộng sản, làm sao ông Hồ Chí Minh có thể cướp thời cơ khởi động cái gọi là cuộc Cách Mạng Mùa Thu? Nếu Mao Trạch Đông không đánh bại Tưởng Giới Thạch ở Hoa Lục thì làm sao “Bộ Đội Cụ Hồ” lập được chiến thắng Điện Biên Phủ để cho ông Hồ Chí Minh thể hiện giấc mộng làm “cha giả dân tộc”? Hai sự kiện vừa nêu chứng tỏ cái may mắn của đảng cộng sản gặp thời!
Giương cao khẩu hiệu “Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc” để phỉnh gạt khát vọng của một dân tộc bị nô lệ phải hy sinh xương máu là một sự lừa đảo đáng khinh bỉ. Nói ra những điều đạo đức, nhưng thi hành những thủ đoạn tồi bại là một sự tráo trở vô luân. Hô hào “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” để đạt “thành công, thành công, đại thành công”, rồi ngấm ngầm sai bộ hạ đi thủ tiêu những người quốc gia yêu nước và gieo lòng thù hận giai cấp thì sự thành công kia chỉ mang lại cho một tập đoàn cầm quyền gian ác hung hiểm thôi! Độc lập tự do gì mà người dân còn khốn khổ hơn dưới thời thực dân đô hộ?
Việt Nam Cộng Hòa đang trên đường xây dựng một chế độ dân chủ còn phôi thai thì bị những phần tử đảng phái xôi thịt chia rẽ xâu xé, những kẻ đội lốt tôn giáo, những trí thức “gà mờ” tiếp tay làm nội gián cho ác quỷ, tất nhiên Miền Nam phải sụp đổ. Chỉ có hạng người mất trí hoặc mù lòa mới không nhìn thấy Mặt trận Giải Phóng Dân Tộc Miền Nam là công cụ của Hà Nội. Vua An Dương Vương dù có nỏ thần vô địch mà bị đứa con gái Mỵ Châu mê trai, làm nội gián tạo phản thì cũng đành mất ngôi báu cùng xã tắc. Nào phải sự thắng trận năm 1975 là do Bắc quân tài giỏi hoặc tập đoàn cầm quyền Hà Nội là “đỉnh cao trí tuệ loài người”? Miền Nam có quá nhiều Mỵ Châu phản bội!

Chưa từng thấy trên thế giới có một đảng chính trị nào kiêu hãnh, tự cao tự đại để tự cho mình là “đỉnh cao trí tuệ loài người” giống như đám lãnh đạo cộng sản Việt Nam mới thoát thai từ vượn lên người! Thực chất tập đoàn lãnh đạo cộng sản là gian ác và ngu dốt. Từ một Miền Nam trù phú không kém gì các quốc gia trong vùng, cộng sản đã biến nhân dân cả nước phải ăn bo bo (thực phẩm của lừa ngựa); xua dân lên vùng kinh tế mới để chiếm đoạt nhà cửa; đánh tư sản mại bản, đổi tiền bao phen làm trắng tay hàng triệu người mà không phải quân cướp, thổ phỉ thì là gì? Mười sáu tấn vàng nay về tay ai?
Kể từ Tháng Tư năm 1975 cho đến nay, bọn làm nội gián đâm sau lưng nhân dân Miền Nam chưa hề bày tỏ một chút trắc ẩn, thương tâm đối với những nạn nhân vượt biển đi tìm tự do chết đuối ngoài biển cả! Những người chống chiến tranh Việt Nam như cô ca sĩ Joan Baez của Hoa Kỳ còn biết mủi lòng trước thảm họa thuyền nhân, đã lên án cái vô nhân đạo của chủ nghĩa cộng sản. Nhưng tuyệt nhiên không ai nghe một lời sám hối từ những người đã từng tiếp tay giúp cho quỷ dữ hoàn thành cuộc thống trị trên toàn cõi đất nước. Loại người như ông Lữ Phương ngày nay phê phán tình trạng băng hoại xã hội, chẳng qua vì bị thất sủng. Giá như ông Lữ Phương có vai vế như Trương Tấn Sang (2) thì cũng quyết tâm chống diễn biến hòa bình để bảo vệ chủ nghĩa cộng sản cho tới cùng!

Người cầm quyền cộng sản từ thời ông Hồ Chí Minh cho đến nay vẫn không hề thay đổi bản chất lừa đảo (nói một đường làm một nẻo) dân tộc và thế giới: rêu rao những điều nhân nghĩa đạo đức như kiến tạo một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh nhưng hành động thì côn đồ (dùng phân người trộn với dầu nhớt đổ vào nhà ông Hoàng Minh Chính hoặc hành hung đàn bà, con trẻ); cam kết tuân thủ quy ước Nhân Quyền để được nhận vào Liên Hiệp Quốc, để được tham gia các định chế tài chính, kinh tế nhưng lại ngầm dở thủ đoạn bẩn thỉu với dân. Khi bị thế giời tố giác vi phạm thì bào chữa mỗi quốc gia hiểu hai chữ  “nhân quyền” theo cách khác nhau! Nham nhở quá sức!

Chỉ khi nào thôi chức, mất quyền thì các ông “cựu” lãnh đạo cộng sản mới bắt đầu góp ý phê phán kẻ kế tục sự nghiệp đàn áp của mình, làm như thể các ông “cựu” là người thật sự có lòng yêu nước thương dân. Thủ tướng lâu năm Phạm văn Đồng khi về vườn thì mới than mình chỉ là bù nhìn. Thủ tướng Võ văn Kiệt từng ký Nghị định 31/CP để bắt người không cần xét xử, khi thôi chức thì mới khuyên người kế nhiệm đừng làm lễ mừng chiến thắng 30 Tháng Tư, vì sẽ có một triệu người vui, một triệu người buồn! Phan văn Khải thì than sở dĩ mình bất lực vì “trên bảo dưới không nghe”!

Mới đây, ông Chủ tịch Quốc hội Nguyễn văn An sau khi trở thành “cựu” rồi mới có cuộc trả lời thẳng thắn (!) với ký giả Thu Hà của Tuần Việt Nam. Ông An nhìn nhận: “trách nhiệm của mình về những nhận thức và việc làm còn nhiều hạn chế và yếu kém của ông khi còn đương nhiệm.” Ông Nguyễn văn An là ai? Ông An đứng vào hàng thứ tư trong Bộ Chính Trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, là người sắp xếp nhân sự vào các bộ phận của đảng, rồi giữ chức Chủ tịch Quốc hội. Chắc chắn ông An phải là người thông hiểu hệ thống đảng hơn ai hết. Hôm nay, khi trở thành công dân thường (lời ông An) thì ông mới nói đến cái “Lỗi Hệ Thống”.
Câu hỏi đặt ra, ai là người tạo nên cái “Hệ thống Đảng Cộng Sản” từ khi cướp chính quyền? (Xin nhắc: “Cướp chính quyền” là chữ của lãnh tụ cộng sản dùng, chứ không phải của người viết). Tại sao lãnh đạo cộng sản dùng chữ “cướp”? Bởi vì bản chất của chủ nghĩa cộng sản là quân ăn cướp thì mới dựng lên một đảng cướp! Xin chứng minh:
Việt Nam là một nước nghèo, chậm tiến, lạc hậu, dân trí thấp. Khát vọng cốt lõi nhất của người Việt Nam dưới ách đô hộ là mong thoát ra khỏi kiếp nô lệ, đủ cơm ăn áo mặc, an cư lạc nghiệp. Chỉ giản dị vậy thôi. Đem một triết lý chính trị (chưa được thực chứng) áp dụng vào Việt Nam là một sự xa xỉ, Ngay cả những người đi làm cách mạng cứu nước như Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông cũng chưa chắc đã hiểu một cách rốt ráo biện chứng pháp, tư liệu sản xuất, công hữu, tư hữu là gì. Karl Marx là anh trí thức tháp ngà, không đủ sức nuôi thân, bạn bè phải cung cấp phương tiện sinh nhai, mà có tham vọng làm cuộc cách mạng cải thiện mức sống loài người là một thứ hoang tưởng. Tiên đoán của Marx rằng cuộc cách mạng vô sản sẽ nổ ra ở các nước tư bản bóc lột có nền kỹ nghệ tiên tiến, nhưng nước Nga là nước hãy còn trong tình trạng nông nghiệp lại là nơi đảng cộng sản ra đời. Sự tiên đoán của Marx đã sai từ đó, chứ không đợi đến khi Đông Âu, Liên Xô sụp đổ. Đặt ra luật lệ “Tài sản quốc gia thuộc sở hữu toàn dân” là một hình thức ăn cướp để tận thu tài sản của dân vào “Ngân Hàng Nhà Nước”, mà Nhà Nước là Đảng; còn nhân dân thì ốm đói trơ xương. Sở dĩ đảng cộng sản thành công là nhờ học được cái tài tổ chức lỗi lạc của Lénine và mánh khóe tuyên truyền bịp bợm, dối trá đánh lừa được các thứ trí thức tháp ngà như Bertrand Russell, Jean-Paul Sartres. Đảng cộng sản chiếm đoạt tài sản của nhân dân (bần cùng hóa mọi người) và sung vào Nhà Nước, rồi mang phân phát miếng ăn cho mọi người (chính sách hộ khẩu, bao cấp), mới nghe qua thì tưởng là công bằng, nhưng thực chất là ăn cướp! Đúng ra, đảng cướp cộng sản tồi bại hơn đảng cướp đời thường, vì đảng cướp đời thường không nhân danh những điều thiêng liêng cao quý như Tổ Quốc, Dân Tộc… để đi ăn cướp!

Đã có hàng chục ngàn trang sách nêu rõ chứng cứ sự cướp bóc của đảng cộng sản từ khi chưa đánh xong giặc Pháp cho đến nay. Thiết tưởng người viết chẳng cần ghi xuống đây. Về mặt hình thức cơ cấu, đảng cộng sản cũng có Hiến Pháp bao gồm những điều khoản về quyền con người như các quốc gia dân chủ, nhưng chỉ để trang trí mà thôi!  Không điều khoản nào được nghiêm chỉnh thi hành. Lập ra hai đảng Dân Chủ (do Hoàng Minh Chính làm đảng trưởng) và Xã Hội (do Nguyễn Xiển làm đảng trưởng) chỉ là cò mồi, nhằm mục đích che mắt thế giới. Kẻ nào khen dưới thời Hồ Chí Minh có đa nguyên đa đảng là nói sai sự thật! Cả thế giới đã lên án chủ nghĩa cộng sản là tai họa thảm khốc của nhân loại. Thế nhưng người cầm quyền cộng sản cương quyết chống “diễn biến hòa bình” để tiến lên thiên đường xã hội chủ nghĩa mà không cần biết hình thù nó như thế nào. Tại sao?
Tại vì cái bộ máy cộng sản triệt tiêu không thương tiếc bất cứ đảng viên nào có tài, có đức, có chút lương tri, có đầu óc cấp tiến muốn đổi mới. Kẻ nào dám phản biện đều bị quy là phản động, cấu kết với lực lượng thù địch. Chỉ có đảng viên nào ngoan ngoãn biết gọi dạ bảo vâng, ngậm miệng ăn tiền thì mới có cơ hội leo lên chiếc ghế lãnh đạo. Mà làm lãnh đạo cộng sản còn sướng hơn bạo chúa thời Trung Cổ, họ viết ra luật là để cai trị dân đen, còn bản thân lãnh đạo thì có quyền ngồi trên luật pháp, muốn giải thích luật thế nào cũng được. Ai nói trái ý mình thì bỏ tù mọt gông, thủ tiêu mất xác. Đó là “Hệ thống” được xây lên bởi chủ nghĩa Marx, cái hệ thống chỉ sản sinh ra người lãnh đạo tham lam, phi đạo đức! Chắc chắn ông Nguyễn văn An biết rõ điều đó hơn ai hết mà không dám nói thẳng ra.

Giả thử rằng ông Nguyễn văn An biết Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh nhượng đất, nhượng biển cho Trung Cộng mà công khai lên tiếng phản đối, thì Đảng sẽ khai trừ ông An ngay lập tức, ông An sẽ không thể giữ chiếc ghế Ủy viên Bộ Chính trị, chẳng bao giờ leo lên chức Chủ tịch Quốc hội! Mà mất cái chức là mất cái quyền và mất cái lợi. Cho nên cứ thây kệ! Tương lai đất nước ra sao thì ra, dù mang tội bán nước cũng không từ, miễn là mình được ấm thân! Đó là cái hệ thống đề ra chủ trương “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” mới nghe qua thì rất dân chủ, nhưng cuối cùng chẳng có ai lãnh đạo, chẳng có ai phụ trách. Vì vậy, ông Nguyễn Tấn Dũng nói quyết định cho Trung Cộng khai thác Bauxite ở Tây Nguyên là chủ trương lớn của Đảng, nhưng nếu ai cắc cớ hỏi Đảng là ai thì cả Bộ Chính trị, cả Ban Chấp Hành Trung Ương chẳng biết Đảng là ai cả!

Cái nguy lớn lao nhất cho Việt Nam ngày nay là các lãnh đạo giữ trọng trách lèo lái con thuyền quốc gia bị mất khả năng biết xấu hổ! Chứ không phải vấn đề dân chủ, độc tài, đa nguyên đa đảng. Bởi vì những quốc gia như Hàn quốc dưới thời Phác Chính Hy, Đài Loan dưới thời Tưởng Giới Thạch, Singapore dưới thời Lý Quang Diệu khởi đi từ chế độ độc tài, nhưng rồi dần dà cũng tiến tới chế độ dân chủ, xã hội ổn định, công bằng, nhân phẩm được đề cao. Nói như thế, không có nghĩa người viết tán dương chế độ độc tài. Điều tôi muốn nhấn mạnh là người lãnh đạo trước hết phải có lòng tự trọng, biết xấu hổ, hứa hẹn với nhân dân, với thế giới điều gì thì phải thực thi. Nói một đường làm một nẻo là lưu manh, là mánh khóe tiểu nhân, chứ không phải lãnh đạo! Chế độ ở Việt Nam hiện nay không phải là chế độ độc tài, mà là chế độ của kẻ cướp dùng mánh khóe, bạo hành để cai trị.

Con người là sinh vật duy nhất được Tạo Hóa dựng nên có khả năng biết xấu hổ, có lòng tự trọng. Biết xấu hổ thì mới biết sám hối để sửa chữa sai lầm, cải tà quy chánh. Những người từng lãnh đạo đất nước, nay thôi chức nếu có thực tâm muốn cứu nước, thì trước hết tự mình dũng cảm nhìn nhận lỗi lầm bản thân để nói lời sám hối, vì quý vị cũng là người nằm trong cái hệ thống do chủ nghĩa cộng sản đẻ ra. Không phải sau khi thôi chức vụ lãnh đạo, quý vị mới sáng mắt, sáng lòng để nhận ra sự trì trệ, sự thoái hóa, sự mất dân chủ trong đảng là do lỗi hệ thống! Quý vị biết lỗi ấy từ khuya rồi, nhưng vẫn a tòng với Sự Ác, Sự Lừa Dối của cộng sản. Vậy quý vị chỉ cần yêu cầu Đảng dứt khoát yêu cầu Đảng từ bỏ chủ nghĩa cộng sản là đủ, như ông Hà Sĩ Phu đã đề nghị “Chia Tay Ý Thức Hệ” từ cuối thế kỷ trước; chứ cần gì phải bàn cãi lôi thôi!

Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện sau mấy chục năm trời nếm mùi cộng sản, đã nói: “Vô sản không đáng sợ bằng vô học”. Tôi nói thêm: “Vô học không đáng sợ bằng vô đạo”. Chính sách cai trị của Đảng Cộng Sản quá sức bất nhân, không còn một chút đạo lý nào nữa. Dù là đạo lý mà Ông Tổ của họ – Karl Marx – đã từng phán như sau: “Chỉ có cầm thú mới quay lưng lại trước nỗi bất hạnh của đồng loại và lo chăm chút cho bộ lông của chúng”. Đảng Cộng Sản Việt Nam không những quay lưng trước nỗi bất hạnh của đồng loại, mà chính họ là gieo rắc sự bất hạnh cho đồng loại, đồng bào. Bây giờ sắp sửa bước qua thập niên thứ hai của thiên niên kỷ, chủ nghĩa cộng sản đã bị cộng đồng nhân loại lên án, nhưng những lãnh đạo Cộng sản Việt Nam vẫn cương quyết tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa thì rõ ràng : HẾT THUỐC CHỮA!

Ý tứ của bài viết trên đây không phải thoát ra từ sự cay cú của một anh lính Miền Nam thua trận, mà là những sự kiện thực tế lịch sử đã xảy ra từ khi đảng cộng sản độc quyền thống trị đất nước. Thay đổi tình trạng tồi tệ hiện nay là bổn phận và nghĩa vụ của những người đã, đang và sẽ lãnh đạo xứ sở. Sám hối để cải tà quy chánh, để từ bỏ chủ nghĩa cộng sản tàn ác là phương thuốc duy nhất để cứu nước.
© Bằng Phong Đặng văn Âu
© Đàn Chim Việt
———————————————–
Chú thích:
(1) Đặng Văn Việt, người đã chỉ huy quân kháng chiến tiêu diệt binh đoàn LePage và Charlton của Pháp trong chiến dịch biên giới Lạng Sơn cuối năm 1950, do đó ông đã được quân Pháp đặt cho danh hiệu là ‘con Hùm Xám Đường số 4.
(2) Trương Tấn Sang gốc người Trung Hoa, sinh ngày 21 tháng 1 năm 1949, quê quán xã Mỹ Hạnh, Quận Đức Hòa, tỉnh Long An. Vào đảng chính thức ngày 20 tháng 12 năm 1970. Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung Ương, là người cương quyết chống “diễn biến hòa bình”, quyết theo chủ nghĩa cộng sản cho tới cùng, dẫu Việt Nam thành quận huyện của Tầu cũng được, vì gốc Tầu.

Lưu trữ

Tự điển



Tự điển Việt Nam
đã được bổ sung những ý nghĩa "chính thức"