Văn học Việt Nam ta trong khoảng 20 năm trở lại đây được đánh giá là
bị bão hòa, tức là không có sự kiện văn học hay tác phẩm nào nổi bật. Và
nhiều rất nhiều người cứ tỏ ra trăn trở: Bao giờ Việt Nam mới có tác
phẩm đỉnh cao? Câu hỏi đó có vẻ đầy thổn thức, bối rối nhưng nhiều khi
xét kĩ lại, tôi thấy tốt nhất là đừng hỏi như thế. Bởi cái hệ lụy trước
hết của câu hỏi ấy là anh hầu như phủ nhận toàn bộ đời sống văn học hiện
thời. Trước tiên anh hãy tự hỏi mình đã đọc được bao nhiêu và theo anh
thế nào là một tác phẩm văn học đỉnh cao!
Cái “tầm” đó là “tầm” gì?
Có nhiều nguyên do để quyết định thành tựu đỉnh cao của một nền văn
học ngoài yếu tố chủ quan thuộc về cá nhân người sáng tác. Có người đổi
thừa cơ chế quản lí, người khác lại nói chung chung là do tầm vóc của
thời đại nhưng theo tôi cái quyết định tối cao là nội sinh của nền văn
hóa nước đó.
Đôi khi chúng ta đã quá phóng đại tầm vóc của văn chương để rồi xem
nó như một cái gì ghê gớm lắm với những sáo ngữ đại loại như người thư
kí trung thành với thời đại, phản ánh hùng hồn hiện thực đời sống. Điều
đó cũng tốt nếu những ngữ ấy được dùng với hàm nghĩa tôn trọng vai trò
của văn chương (ý nghĩ đầy cảm hứng đó nhiều khi nhầm lẫn văn chương với
lịch sử hay báo chí truyền thông thì chỉ tổ làm điếm nhục nó, xem nó
như một thứ nô lệ làm công cụ, làm chức năng xyz). Nhưng xét cho cùng,
phải nhìn cho kĩ, nghiêm khắc, cho đúng với sự thật bất biến của nó mấy
ngàn năm nay kể từ khi nhân loại có khái niệm này: văn chương cũng chỉ
là một bộ phận trong toàn bộ chỉnh thể đời sống văn hóa (mà nói theo
kiểu Marx thì đó là bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng). Văn chương
muốn được đánh giá khách quan nhất phải nhìn nó xuyên qua bức màng văn
hóa. Tách văn chương ra khỏi điều ấy thì nó sẽ chẳng là gì cả.
Cái tầm của một nền văn học không thuộc về nhân tố thời đại hay cơ
chế, đó chỉ là tác nhân phụ kiềm hãm hay thôi thúc văn chương mà thôi.
Có người cho rằng thời đại của Việt Nam hôm nay quá tốt đẹp vậy tại sao
văn chương lại không có tác phẩm xứng tầm. Tôi chỉ muốn hỏi thế này, xin
lỗi anh, thời đại này là thời đại gì mà bắt văn chương xứng tầm? Cái
thời 1954–1975 lịch sử dữ dội như thế nhưng có tìm ra được tác phẩm phổ
quát nhân loại hay chỉ toàn là loại văn học chức năng gióng trống thổi
kèn. Tôi không dám phủ nhận hết thành tựu của giai đoạn này, và tôi thừa
nhận nó có nhiều tác phẩm gây rung động hàng triệu trái tim bạn đọc
(chủ yếu là thơ ca) nhưng tìm thấy tác phẩm đỉnh cao thì không (tiểu
thuyết).
Cái “tầm” đó là “tầm” gì? Tại sao cái thời trước 1945, nước ta ngập
chìm trong nô lệ, lí tưởng bị cho là mù mờ mà văn chương và các ngành
nghệ thuật khác lại có những đỉnh cao thành tựu rực rỡ đến như vậy? Cái
thời đại mà nhiều nhà “triết nhân, vĩ nhân lỗi lạc ở tỉnh lẻ nước ta”
vẫn nguyền rủa và quăng cho nó hết mọi tội lỗi lại chấp cánh cho những
kì tài xuất chúng. Còn bây giờ thời đại làm chủ, thời đại tự do, của sự
ngợi ca và tung hê bất chấp văn chương lại bị cho là yếu kém. Tất cả đều
do cách nghĩ đầy phân biệt, định kiến của ta giới hạn mà thôi. Tại sao
Cao Hành Kiện viết được Linh Sơn trong một thời đại mà Trung Cộng vô
cùng cực đoan hà khắc, “cưỡng bức” tinh thần của nhà văn một cách thô
thiển. Cơ chế càng chặt thì sức phản kháng và nội lực vùng dậy để tạo
sức bật cho văn chương càng tiến xa hơn đấy thôi. Cơ chế có thể đe nẹt
những nhà văn yếu tầm, thích sự bình yên chứ không “dìm” chết được những
thiên tài đích thực. Và cũng chính trong cơ chế nước ta một thời vẫn
xuất hiện được một Nguyễn Huy Thiệp với tiếng nói đầy mạnh mẽ, dứt
khoát, như thách thức như chòng ghẹo lại cơ chế ấy mà thôi (rồi còn Phạm
Thị Hoài hay Dương Thu Hương nữa). Cơ chế ấy có thể trù giập, phỉ báng
Cao Hành Kiện, Nguyễn Huy Thiệp và phủ nhận sáng tác của hai ông nhưng
cái quan trọng là những tác phẩm của hai ông đã ra đời chính trong cơ
chế đó như một sự phản kháng, một kiểu kháng sinh và nó dần được thừa
nhận. Tóm lại, đừng đem cơ chế ra, dù là hướng tích cực hay tiêu cực để
quy chụp mọi thành tựu hoặc thất bại của một nền văn học.
Cần ‘thoát khỏi các công thức chung chung’
Tôi đã đọc bài viết “Tại sao Việt Nam chưa có tác phẩm đỉnh cao?” của
tác giả T.T.T trên VNN và cảm thấy cần phản biện. Khi người viết đưa ra
hai dẫn chứng về hai văn tài là L. Toltoi và Mạc Ngôn và phân tích
những yếu tố làm nên tài năng của họ tôi thấy có vẻ quá lí thuyết. L.
Toltoi là một nhà văn quý tộc, sinh ra trong một giai đoạn bạo liệt và
có những nỗ lực tự thân; Mạc Ngôn từng kinh qua cách mạng văn hóa đầy
biến động, có những trải nghiệm trong môi trường quân đội… Những yếu tố
ngoại cảnh đó chỉ thuộc về một trường hợp ví dụ sao có thể đem nó làm
chuẩn mực để đi khái quát những vấn đề liên quan đến đời sống văn học.
Chung quy lại vẫn là không thoát khỏi cái công thức chung chung nhà văn –
cuộc sống – tác phẩm. Có một nhân tố tác giả quên phân tích mà theo tôi
nó sẽ làm cho nhận định đó trở nên chặt chẽ hơn: hai người đó sinh ra
trên hai đất nước có nền văn hóa vĩ đại, lộng lẫy (kể cả điên cuồng bật
nhất) và có tầm ảnh hưởng sâu rộng trên thế giới. (Dĩ nhiên chúng ta
không thể làm phép suy luận ngược lại ai sinh ra trên một đất nước có
nền văn hóa vĩ đại thì đều thành những L. Toltoi những Mạc Ngôn).
Tôi biết khi nói điều này có vẻ đánh mất đi lòng tự trọng dân tộc, lẽ
nào lại cho rằng nền văn hóa nước ta không đủ tầm. Nhưng tôi thà nhận
xét sắc lạnh như vậy để nhìn thẳng vào sự thật còn hơn lúc nào cũng mang
tinh thần AQ quá ảo tưởng về mình. Chúng ta yêu tha thiết nền văn hóa
nước nhà và trân trọng thành quả của cha ông nhưng cũng không thể nào
đem nó sánh nổi với những nền văn hóa lớn, có tính khai phá và bứt phá
như Trung Quốc, Nhật Bản, Pháp, Nga…Mà một trong những nhân tố làm nên
hào quang của nền văn hóa chính là nền tảng triết mĩ của dân tộc đó.
Khí chất của dân tộc ta xưa nay đã được các học giả uyên bác như Đào
Duy Anh, Trần Trọng Kim khái quát: chúng ta tinh nhạy tiếp nhận, tiếp
biến cái mới rất khéo nhưng hạn chế về tầm sáng tạo. Chúng ta giỏi bắt
chước hơn sáng tạo. Nhìn kĩ lại hệ thống triết học của ta phần lớn là
tiếp thu từ Trung Quốc và Liên Xô, Pháp chứ chưa có một tư tưởng hệ nào
do mình khai phá. Từ triết học Nho – Phật – Lão đến chủ nghĩa Marx –
Lenin…tất cả đều dựa trên nền tảng du nhập mà tiếp biến cho phù hợp với
văn hóa nước nhà. Đó là chưa nói dân tộc ta hầu như bỏ qua tinh thần
triết học hiện đại của các nước phương Tây và nhìn nó với cái nhìn kì
thị như triết học hiện sinh, Nietzsche, triết học phi lí hay phân tâm
học của Freud… Nói chung một phần do dân tộc ta nằm ở giao lộ văn hóa
chịu ảnh hưởng nhiều luồng tư tưởng, nhưng nhìn ở góc độ nội sinh, văn
hóa ta không có truyền thống triết học căn cơ mà chủ yếu là chịu ảnh
hưởng từ các nền văn hóa lớn. Những thần tượng mà ta tôn sùng như Khổng
Mạnh, Lão Trang, Marx Lenin…đều từ các nền văn hóa lớn khác.
Do đó, dù bản thân tôi rất trân trọng văn hóa đẹp mà cha ông để lại
và tự hiểu bản thân mình có học cả đời cũng không bao giờ biết hết nhưng
tôi cũng đành thẳng thắn khẳng định nội lực văn hóa của nước ta khó
lòng chấp cánh cho những thiên tài văn chương có tác phẩm đủ tầm phổ
quát nhân loại. Thế nên, đừng nên cứ khư khư nhìn vào thành tựu các nước
lớn rồi cứ chắc lưỡi hít hà hỏi mãi cái điệp khúc bao giờ nước ta có
tác phẩm đỉnh cao. Nội sinh nền văn hóa nước ta chưa đủ tầm vươn tới
nhưng đỉnh cao đó. Mà đó cũng là cục diện chung của rất nhiều nước ở
châu Á. Cả một châu lục to lớn như thế đến nay chỉ vài người đạt tầm
Nobel, và hiếm có nhà văn châu Á nào có tầm ảnh hưởng khắp thế giới như
Tagore hay Cao Hành Kiện. Kiệt tác Truyện Kiều mà ta ngợi ca mấy thế kỉ
này trên thế giới thử hỏi mấy ai biết tới, và truy cho cùng gần như nó
chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Hoa. Bỏ qua hệ thống điển tích Trung
Quốc thì toàn bộ ngôn ngữ Truyện Kiều đều bị mã hóa không thể hiểu nổi.
Không cần phải so sánh với ai, tầm vóc gì, Truyện Kiều làm đẹp cho nền
văn hóa nước nhà, kết tinh văn hóa dân tộc, thế là đủ rồi. Cần gì mơ
cao, mơ tầm này tầm nọ.
Tôi khẳng định điều này không phải hạ thấp nền văn hóa nước nhà mà
chỉ mong (một cách thành tâm) đánh giá đúng giá trị của chính mình. Như
vậy cũng đủ ta biết ơn cha ông và tự hào vì đã thông minh tiếp thu và
tiếp biến một cách sáng tạo để có nền văn hóa đẹp ngàn đời nay. Và chỉ
vậy thôi chứ đừng quá ảo tưởng xem Việt Nam là cái gì cũng nhất nhất
muốn sánh tầm với các cường quốc mọi phương diện. Tôi vẫn bảo thủ quan
niệm của mình, một dân tộc mà không có truyền thống căn cơ triết học
(như Trung Quốc, Ấn Độ, Đức, Pháp, Nga…) thì khó mà có một nền văn học
rực rỡ đẳng cấp nhân loại được. Trường hợp Mỹ và Nhật thì là hai ngoại
lệ, họ có tinh thần đổi mới và rộng mở, sáng tạo một cách kiệt xuất kì
tích nên dù trong quá khứ nền văn hóa nước họ không lộng lẫy như các
nước kể trên nhưng họ đã kịp bứt phá tạo ra văn hóa hiện đại mà các nước
khác khó theo kịp.
Bởi vậy, nên chăng chúng ta nhìn văn học từ góc độ văn hóa để biết
chấp nhận nhìn ra đâu là giới hạn của nó. Đâu cần phải là một tác phẩm
đỉnh cao mới thỏa lòng bao nhiêu thế hệ bạn đọc. Đời sống văn học vốn
phong phú đa dạng, đáp ứng nhiều nhu cầu…Văn chương có thể không đình
đám kiểu như Chiến tranh và hòa bình, Linh Sơn… nhưng nó đạt giá trị
nhân văn, làm đẹp tâm hồn con người, giúp họ giải trí lành mạnh và làm
phong phú, sổi nổi cho đời sống văn học nước nhà thì hãy coi đó là phúc
đức. Không nên cứ lên gân gào thét mãi: Bao giờ Việt Nam có tác phẩm
đỉnh cao, bao giờ Việt Nam có tác phẩm xứng tầm… kiểu như đào đến tầng
sâu hiện thực, phản ánh sâu sắc hiện thực đời sống, nói lên tiếng lòng
của triệu người, vượt qua mọi bờ cõi và giới hạn…thì xin trả lời một
cách nhẫn tâm rằng: chẳng bao giờ có ngày đó.
Bởi thế, một nhà văn có tầm luôn tự ý thức ngoài việc tiếp thu nền
văn hóa đẹp của cha ông còn phải không ngừng tiếp cận, đào sâu, thẩm
thấu nền tảng triết mĩ của các nền văn hóa khác thì mới mong vươn tới
cái tầm nào đó. Hãy nhìn Linh Sơn của Cao Hành Kiện mà xem, nó là tổ hợp
của tinh thần triết học Phật, Nho, Lão, tinh thần siêu nhân, triết học
hiện sinh, phi lý, hư vô… Còn ta cứ mãi gậm nhấm vài ba bài học luân lí
cũ rích về tình yêu vụn vặt, tình yêu làng quê, đất nước, tình yêu chế
độ, yêu vốn văn hóa truyền thống thì mãi mãi văn chương không vượt nổi
lũy tre làng.
Phát triển tự nhiên
Có một hạn chế mà cả Trung Quốc và Việt Nam đều mắc phải đó là ta hay
sùng bái những giá trị truyền thống một cách mù quáng mà đôi khi không
nhận ra sức ì của nó. Chỉ có tinh thần của Nietzsche mới đủ sức giúp ta
có tư duy vượt thời gian, vượt qua ranh giới quốc gia, dân tộc để vươn
lên tầm phổ quát nhân loại. Điều này Nguyễn Tuân đã từng mơ màng chạm
tới và bị người ta đánh tơi bời tan nát. Và đến lượt Thiệp ông đã đẩy
lên đến mức độ “hổn láo” nên mới dám khẳng định Nguyễn Du là người con
của sự cưỡng bức hai nền văn hóa, và ông cũng chịu nhận sự trù giập
tương tự. Yêu trọng văn hóa cha ông là một lẽ nhưng cũng phải tự trọng,
nghiêm túc nhìn ra giới hạn để mà bứt phá đến những giá trị tiến bộ, đạt
tính toàn cầu. Chừng nào làm được điều đó, nền văn hóa nước này vượt
qua mặc cảm tự ti và sự tự tôn đầy cảm hứng thì hãy mơ đến nền văn
chương đỉnh cao. Xin đừng nhai mãi cái tuyên ngôn hòa nhập chứ không hòa
tan nữa. Luận điệu chính trị đó sẽ giết chết những giá trị tiến bộ của
văn hóa. Hãy nhìn Nhật mà xem, nhắc đến Nhật hôm nay không phải chỉ là
hoa anh đào, kiếm đạo, kimono, nữ thần mặt trời nữa mà còn là Manga, là
cái chết đẹp, là ẩm thực sushi… Tất cả đều trở thành văn hóa toàn cầu
tạo ra lợi nhuận kinh tế.
Còn với tôi, tôi trân trọng với những gì mà các nhà văn hôm nay cống
hiến cho cuộc sống. Khi cần giải trí lành mạnh, trong sáng nhẹ nhàng và
giàu tính nhân văn tôi sẽ đọc Nguyễn Nhật Ánh; khi tôi muốn cảm nghiệm
chút cảm giác ghê gợn, hồi hợp tôi đọc Dili; có khi cần trải nghiệm nhân
sinh sâu sắc tồi tim đọc Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Huy
Thiệp, Tạ Duy Anh, Nguyễn Việt Hà, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà… Và còn vô số
những nhà văn, những tác phẩm thú vị mà mình chưa đọc hết. Có thể đối
với văn đàn thế giới họ chẳng là ai cả, nhưng họ đang đem đến cho người
đọc những món ăn tinh thần rất nhân văn. Vậy thì còn đòi hỏi gì nữa. Đọc
đi để thấy đời sống văn học đã có dòng thác chuyển động của riêng nó
đầy thú vị và vẫn có độc giả cho riêng nó ở mỗi thể loại. Tại sao cứ cực
đoan ngồi đấy phủ nhận hết rồi mơ đến một chân trời không tưởng mà
không hiểu rằng, cần gì phải lên gân như vậy. Miễn sao những tác phẩm ấy
ra đời, làm phong phú đời sống văn học, đáp ứng đa dạng nhu cầu người
đọc, tạo dư luận là phúc đức ngàn đời cha ông để lại rồi. Tôi không hiểu
tác phẩm đỉnh cao là gì và tại sao cứ gào thét mãi điệp khúc ấy? Cứ để
văn học tự nhiên phát triển theo đúng quy luật và khả năng của nó (do
nền văn hóa quy định).
Chúng ta nên học hỏi Trung Quốc, từ sau cải cách đến nay, họ đã thật
sự tạo ra một đời sống văn học trăm hoa đua nở với đầy đủ các dòng phái,
thể loại, thượng vàng hạ cám đều có nhưng chắc chắn khi sàng lọc sẽ có
lắm tinh hoa. Ngoài dòng tiểu thuyết chính thống kiểu Mạc Ngôn, Giả Bình
Ao, Vương Mông, Lý Nhuệ,… họ còn có dòng văn học nữ quyền (Vệ Tuệ, Trì
Lợi), dòng văn học trinh thám kinh dị, văn học giả tưởng, tiểu thuyết
diễm tình, truyện chưởng, tiên hiệp, kiếm hiệp… Họ khác Việt Nam ta ở
chỗ đặt tản văn, bút kí ngang hàng với tiểu thuyết, kịch. Chính sự rộng
mở đó sẽ tạo sự hồi sinh và động lực để văn hóa, văn học bùng nổ. Chúng
ta nên tôn trọng và kiên nhẫn đọc đa dạng chứ không phải ngồi mơ mãi về
quá khứ bao giờ mới có tác phẩm sánh với sáng tác của Nam Cao hay các
tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người
nhiều ma… Đó là do ta cực đoan mà thôi, nhìn ở góc độ thi pháp, các nhà
văn hôm nay đã vượt rất xa cái bóng của những tiền bối rồi và văn học
đang hội nhập, thay da đổi thịt từng ngày. Việc gì cứ sùng bái mãi những
tượng đài trong quá khứ mà cho rằng bao giờ tìm được tác phẩm sánh
ngang với nó.
Tóm lại, quan điểm của tôi là không cực đoan cầu toàn đặt ra bất kì
tiêu chí, chuẩn mực nào cho văn học. Cứ để nó tự nhiên phát triển, đến
một lúc nào đó sàng lọc lại, tinh hoa sẽ lấp lánh trong rừng văn bề bộn
đó. Hãy kiên nhẫn đọc và chấp nhận chứ đừng ảo tưởng mà hỏi hoài hỏi
mãi: Bao giờ Việt Nam có tác phẩm xứng tầm? – Một câu hỏi tưởng đâu nhức
nhối nhưng thật ra ngây ngô, vô tâm và vô duyên hết sức. Tôi biết trong
cách lập luận của mình và giọng điệu có phần trịch thượng, non kém
nhưng mong mọi người nhìn nó với tinh thần đối thoại và chấp nhận chút
gì thành tâm của tôi. Tôi luôn hiểu rằng cái mình biết còn nhiều giới
hạn.
© TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC 2012