GS Nguyễn Văn Tuấn
Hôm nay, đọc được một tin mà không biết nên mừng hay buồn, có lẽ quan
tâm thì đúng hơn. Đó là bản tin về Viện Khổng Tử được khánh thành ở ĐH
Hà Nội. Thật ra, nhìn bề ngoài thì chẳng có gì phải quan tâm, vì từ ngày
Tàu bắt đầu khá lên, họ "rải" Viện Khổng Tử khắp thế giới. Ở Úc này,
các đại học lớn đều có Viện Khổng Tử, do Chính phủ Tàu tài trợ và có lẽ
dính dáng vào việc điều hành. Nhưng ở Việt Nam thì khác, vì chúng ta có
một mối liên hệ lâu dài và bão táp với cái nước khổng lồ ở phương Bắc
đó. Nói xa không qua nói gần: chúng ta đã từng bị lệ thuộc (có người
dùng chữ "nô lệ") vào Tàu đã quá lâu, sự hiện diện của Viện Khổng Tử có
lẽ mở thêm một cánh cửa để Việt Nam lọt vào quĩ đạo lệ thuộc hơn nữa vào
Tàu. Và, trong lúc chúng ta đang muốn "thoát Trung", Viện Khổng Tử là
một bước lùi. Nhìn như thế, việc lập Viện Khổng Tử ở Hà Nội cũng là một
tin buồn.
Tôi không am hiểu về Nho Giáo và Khổng Tử, nhưng có đọc khá nhiều
sách về ông, nên chỉ muốn nhân dịp này góp vài lời "mua vui cũng được
một vài trống canh". Dĩ nhiên, tôi cũng sẽ nói qua suy nghĩ của mình về
sự hiện diện của Viện Khổng Tử ở VN. Nói đến Khổng Tử và Khổng Giáo là
đề tài quá lớn, chẳng ai dám nói mình am hiểu, nên tôi chỉ có thể nói
theo cách hiểu của tôi. Trước đây, ông Nguyễn Gia Kiểng có một bài dài
bàn về Khổng Tử, và tôi có lấy vài dữ liệu trong bài đó. Ngoài ra, tôi
có sử dụng phần lớn nguồn dữ liệu từ wikipedia và sách của hai học giả
Nguyễn Hiến Lê và Trần Trọng Kim. Tôi sẽ bàn về con người của Khổng Tử,
học thuyết (nếu có thể dùng chữ đó) của ông, và tại sao Tàu muốn quảng
bá viện Khổng Tử.
Một con người máy móc
Cuộc đời của Khổng Tử cũng rất thú vị, nhưng nếu đọc kĩ thì hình như
ông chẳng có đóng góp gì quan trọng lắm. Ông tên là Khổng Khâu, sinh năm
551 trước Công Nguyên, ở nước Lỗ, trong một gia đình [nói theo ngôn ngữ
thời nay] là trung lưu vì ba của ông là một vị quan thuộc nước Lỗ. Tuy
ông được người đời sau tôn thành "Vạn thế Sư biểu" (Bậc thầy của muôn
đời), nhưng cuộc đời và sự nghiệp của ông nếu được soi rọi kĩ thì không
hẳn xứng đáng với danh hiệu đó. Nói chính xác, ông là một … thầy cúng.
Theo sử sách để lại, năm 19 hay 20 tuổi, ông ra làm quan, chuyên nghề
thu thuế. Sau đó, ông được giao việc chăm sóc các con vật dùng vào cúng
tế.
Có lẽ chính vì cái xuất thân này mà ông rất quan tâm đến thủ tục cúng
tế. Có lẽ vì xuất thân là người thu thuế, kế toán, nên ông rất quan tâm
đến sự chính xác. Ông sống như kẻ trưởng giả, suốt đời từ cách ăn uống,
cách mặc, cách đi đứng, cách cư xử, lúc nào cũng theo qui ước. Sách
Luận Ngữ viết rằng ông chỉ ăn thức ăn nấu thật chín, món ăn phải theo
mùa, lượng rau và thịt không thay đổi. Ông cũng uống rượu nhưng không
bao giờ để cho say xỉn. Ăn mặc thì không mặc quần áo màu mè, lễ phục thì
cánh tay mặt phải dài hơn cánh tay trái, quần áo ngủ phải dài hơn quần
áo ban ngày nửa thước. Còn nói thì nói chậm, và không dùng ngón tay để
chỉ một vật gì. Trong triều đình cung cách của Khổng Tử là "thượng đội
hạ đạp". Đối với các quan cấp dưới thì ông tỏ ra cứng cỏi, còn đối với
các quan cấp cao hơn thì uyển chuyển. Đó là chân dung của một người rất
máy móc, cứng nhắc, và sống theo qui ước cho chính ông đặt ra.
Không được trọng dụng
Không được trọng dụng
Thời thanh niên và trung niên, Khổng Tử không được trọng dụng vì ông
chẳng có đóng góp gì quan trọng. Ông lưu lạc rất nhiều nước, nhưng chẳng
có vua chúa nào trọng dụng tài của ông. Cuối cùng ông về nước Lỗ và mở
trường dạy học. Nên nhớ rằng thời đó, chỉ có triều đình và những "hiền
nhân" mới có quyền mở trường dạy học. Nhờ trường của Khổng Tử mà nhiều
môn đồ sau này làm lớn trong triều đình. Ông đào tạo khoảng 3000 môn đồ.
Nghe nói công lớn của ông là làm cho khoảng cách giữa người "quân tử"
và "tiểu nhân" ngắn hơn, nhưng có người cho rằng đó là một ảnh hưởng vô ý
thức, vì trong thâm tâm ông không muốn vậy. Theo sách vở để lại, ông
xem kẻ tiểu nhân không đáng được kính trọng, không cần nể nang (giống
như Francis Galton bên Anh).
Khổng Tử được tôn xưng là một nhà đạo đức, nhưng "đạo đức" ở đây có
nghĩa là ông làm đúng nghi lễ, chứ không hẳn là có đạo cao đức trọng.
Ông dạy môn đồ phải trung thực, giữ tín nghĩa với bạn bè, phải phụng
dưỡng cha mẹ, giúp người già sống yên ổn, yêu trẻ thơ. Đó thật ra là
những chuẩn mực chung thời đó của người Á Đông. Nhưng Khổng Tử không có
tầm vóc "global" của Phật Thích Ca hay Chúa Jesus, những người có khả
năng xây dựng hẳn một nền triết lí và đạo đức học để cứu rỗi thiên hạ.
Thậm chí, ông còn kém hơn Gandhi một bậc.
Ông cũng có vẻ rất thích tự xem mình làm việc của thánh. Ông từng nói
rằng "Bảo ta là thánh thì ta không dám, nhưng ta làm việc thánh không
biết chán, dạy người không biết mỏi." Ông cũng khá tự tin về tài năng
của mình. Ông từng phán rằng vua chúa nào mà biết trọng dụng ông thì chỉ
một năm ông sẽ làm cho nước đó khá lên, 3 năm là sẽ thành công. Nhưng
trong thực tế, chẳng vua chúa nào tin dùng ông cả. Chứng cứ cho thấy ông
làm quan nước Lỗ gần 10 năm mà nước này có khá lên đâu. Khổng Tử chủ
trương tập trung quyền lực vào vua chúa, không cho các đại thần tham
chính. Chính vì thế mà các đại thần rất ghét Khổng Tử, họ khuyên vua
chúa nên xa lánh ông quân sư này.
Có thể nói rằng Khổng Tử là người thích làm quan cầu vinh và … trốn
thực tế. Ông khuyên người quân tử nên mưu tìm học đạo chứ đừng quan tâm
đến miếng cơm manh áo. Lí do, theo ông, học đạo thì sẽ ra làm quan, vinh
danh phú quí. Làm quan thì ắt sẽ có miếng ăn. Khi đã làm quan, ông
khuyên rằng nước nào thịnh thì tìm đến xin làm quan, còn nước nào khó
khăn thì bỏ đi. Ông cũng khuyên rằng nước lâm nguy thì không nên vào,
nước bị loạn thì không nên ở. Cái triết lí này cũng từng được nho sĩ
Nguyễn Khuyến áp dụng triệt để. Khi nước mất về tay người Pháp, ông lui
về ở ẩn để ngâm vịnh thơ ca, chứ chẳng có đóng góp gì đáng chú ý.
Học thuyết của Khổng Tử
Cũng như các "học thuyết" thời xưa, những gì Khổng Tử để lại chẳng là
bao nếu so với tiêu chuẩn hiện nay. Tác phẩm của ông là Tứ Thư và Ngũ
Kinh. Nếu gộp lại thì chắc độ 300 trang. Ấy thế mà suốt đời này sang đời
khác, người ta lải nhải nhắc đến những sách này như là "học thuyết"!
Nếu hỏi một người bình thường, hay ngay cả một bậc trí giả, rằng
Khổng Giáo dạy cái gì, thì chắc chắn họ sẽ lúng túng. Có thể họ sẽ kể ra
đó là triết lí trung, hiếu, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Nhưng đó là
những giá trị thì đúng hơn, và những giá trị đó cũng mập mờ, chứ không
được phát triển thành hệ thống triết học như phương Tây. Tuy nhiên, có
thể nói rằng Khổng Giáo dựa trên "tam cương, ngũ thường". Tam cương là 3
bổn phận của kẻ sĩ: trung với vua, hiếu với cha mẹ, chung thủy với vợ.
Ngũ thường thì vẫn được coi là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Về sau, Khổng Giáo còn được bổ sung thêm các giá trị dành cho phụ nữ:
tam tòng, tứ đức. Tam tòng là ba sự phục tùng mà người đàn bà phải tuân
thủ: lúc còn con gái thì phải phục tùng cha, lấy chồng thì phải phục
tùng chồng, chồng chết thì phải phục tùng con. Tứ đức là bốn đức tính
người đàn bà phải rèn luỵện, đó là công, dung, ngôn, hạnh (khéo tay, có
nhan sắc, ăn nói tốt, và hạnh kiểm tốt). Khổng Giáo cũng rất quan tâm
đến một giá trị đặc biệt: đó là chữ trinh tiết của người phụ nữ.
Cần phải nói rằng Khổng Tử đề ra những giá trị đó một cách … khơi
khơi. Ông chẳng đưa ra được chứng cứ gì có hệ thống, chẳng thèm phân
tích lí lẽ. Ông chẳng chứng minh bằng logic hay biện luận như triết gia
phương Tây. Ông chỉ phán chung chung, ai muốn hiểu sao thì hiểu. Còn các
giá trị ông đề ra cho phụ nữ phải nói là lạc hậu (so với ngày nay).
Những giá trị đó còn hạ thấp vai trò của người phụ nữ, xem họ như là vật
dụng. Thật là vô lí khi đòi hỏi người phụ nữ phải phục tùng chồng con!
Còn đòi hỏi trinh tiết như là một giá trị có người xem là … đểu cáng.
Chúng ta còn nhớ chuyện anh chàng Chử Đồng Tử bị công chúa nhìn thấy
trần truồng trong lúc tắm, và thế là nàng ta xem mình bị … mất trinh. Đã
thế còn phải cưới anh ta làm chồng. Phải nói là hài hước đến độ khó
tin! Ngày nay, những giá trị đó của Khổng Tử không thể áp dụng được vì
đó là một hệ giá trị quái đản.
Giá trị "nhân" không được ông định nghĩa đàng hoàng. Trong Luận Ngữ,
Khổng Tử viết rằng nhân là người trí thì thích nước, người nhân thì
thích núi, người trí thì động còn người nhân thì tĩnh. Chẳng ai hiểu ông
định nghĩa gì. Chữ "lễ" của Khổng Giáo cũng là một sự mập mờ và dễ gây
hiểu lầm. Luận Ngữ xem lễ chỉ là nghi thức và hình thức cúng bái và ứng
xử với vua chúa ra sao. Cũng xin nói thêm rằng hiện nay ở VN có phong
trào "tiên học lễ hậu học văn", nhưng đây là một "áp dụng" sai. Như đề
cập, lễ ở đây có nghĩa là nghi thức (học quì, lạy, cúi đầu). Như vậy nói
"tiên học lễ, hậu học văn" là rất ngược đời.
Nhà văn Bá Dương (người Tàu) là tác giả cuốn sách nổi tiếng "Người
Trung Quốc Xấu Xí" vạch ra những cái xấu của người Tàu và văn hoá Tàu.
Trong sách, ông xem Khổng Giáo là một hũ tương đặc sệt. Nhưng có người
xem nó còn tệ hơn một hũ tương, vì Khổng Giáo còn đề cập đến quỉ thần,
phục tùng vua chúa, đặt ra những qui ước ăn ở trong gia đình, tu thân,
v.v. Ông Nguyễn Gia Kiểng xem Khổng Giáo là một "hũ mắm thập cẩm, thịt
có, cá có, tôm có, mà rau cũng có. Mỗi người nếm nói một cách riêng,
người thì bảo là thịt, người thì nói là cá, người lại nói là tôm. Ai
cũng đúng cả mà cũng chẳng ai đúng cả. Cho nên có người nói Nho Giáo là
hệ thống chính trị, có người nói đó là một triết lí và cũng có người coi
nó là đạo lí."
Tại sao Tàu muốn vực dậy Khổng Tử
Quan điểm của Khổng Tử được các chế độ toàn trị và quân chủ chuyên
chế rất thích. Ông kêu gọi tôn quân, phân biệt người quân tử và bậc tiểu
nhân, những điều rất phù hợp với quan điểm các chế độ toàn trị. Ông
quan niệm rằng "quân tử học đạo tác ái nhân, tiểu nhân học đạo tạc đi sử
giả" (người quân tử mà có đạo thì yêu người, còn kẻ tiểu nhân mà có đạo
thì dễ sai bảo). Ông còn nói "quân tử hữu dũng nhi vô nghĩa vi loạn,
tiểu nhân hữu dũng nhi vô nghĩa vi đạo" (kẻ quân tử có dũng khí mà không
có nghĩa thì là kẻ loạn, kẻ tiểu nhân có dũng mà không có nghĩa thì đi
ăn trộm). Cũng giống như trong chế độ toàn trị, kẻ làm quan hay cán bộ
được xem là "cao thượng", còn dân chúng là hạng thấp kém, hèn hạ, cần
phải được rèn luyện và giáo dục. Có lẽ vì thế mà các chế độ này rất tôn
kính ông như là một bậc thánh.
Có vài đặc điểm về Khổng Giáo mà giới toàn trị rất ưa thích. Thứ nhất
là tinh thần thủ cựu, bảo thủ. Khổng Tử, như tôi mô tả trên, là người
rất tôn trọng nghi thức (ông gọi là "lễ"), suốt năm này sang năm khác,
ông chỉ lặp lại những nghi thức, lễ giáo ông đặt ra. Không sáng tạo cái
gì mới, thậm chí còn thù ghét cái mới. Thứ hai là thiếu tính khoan dung
và độc quyền chân lí. Các giá trị mà Khổng Tử truyền bá là qua áp đặt
chứ không qua thuyết phục. Ông không muốn có một chân lí khác ngoài chân
lí của ông. Thứ ba là tính sùng bái cá nhân, sùng bái cấp trên một cách
bệnh hoạn. Đặc điểm thứ ba này cũng rất phù hợp với quan điểm của các
chế độ quân chủ và toàn trị, vì họ thích dựng lên những cá nhân bán thần
thánh.
Nhìn như thế, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy đảng cộng sản Tàu
muốn vực dậy Khổng Tử. Nên nhớ rằng trước đây Mao Trạch Đông rất ghét
Khổng Tử, ông nhìn thấy mấy nhà thờ Khổng Tử là muốn đốt! Có lẽ một phần
là do mặc cảm, vì Mao xuất thân là kẻ thất học? Nhưng trong thời đại
mới, Tàu có lẽ tìm thấy vài điều hay ho từ Khổng Tử và muốn quảng bá ra
ngoài. Do đó, họ đã đầu tư rất nhiều cho viện Khổng Tử. Đã có hơn 300
viện Khổng Tử mọc lên từ nhiều đại học trên thế giới, phần lớn là Phi
châu.
Thật ra, Viện Khổng Tử không hẳn quảng bá những lời dạy của Khổng Tử,
mà quảng bá hình ảnh của một nước Tàu thời hậu Mao. Ngoài ra, còn có
nhiều thông tin, kể cả thông tin từ các giáo sư bên Tàu, cho biết các
viện Khổng Tử ở nước ngoài là những ổ gián điệp, nơi mà Tàu thu thập
thông tin tình báo. Ngay cả những "giáo sư thỉnh giảng" được Tàu gửi
sang các viện Khổng Tử cũng là tình báo. Chẳng ai ngạc nhiên vì một chế
độ với bản chất lừa dối như Tàu nếu họ khoác mặt nạ học thuật cho một cơ
sở tình báo và tuyên truyền.
Giới chính trị Tàu xem Viện Khổng Tử như là một loại "quyền lực mềm"
(soft power). Họ muốn bắt chước Đức, Mĩ, Anh, Pháp, v.v. bằng hình thức
quảng bá văn hoá ra ngoài. Nhưng họ quen thói độc quyền tư tưởng, nên sự
hiện diện của các viện Khổng Tử là một đe doạ đến tự do học thuật. Thật
vậy, một hiệp hội giáo sư Mĩ đã đồng thanh lên tiếng tẩy chay các viện
Khổng Tử ở Mĩ vì họ xem viện Khổng Tử là một công cụ tuyên truyền của
nhà nước Tàu cộng sản, và tuyên truyền thì không tôn trọng tự do học
thuật. Hồ Cẩm Đào chẳng dấu giếm gì về ý đồ tuyên truyền khi ông nói
rằng viện Khổng Tử là “cửa ngõ quan trọng để làm sáng danh văn hóa Trung
Quốc, giúp mở rộng văn hóa Trung Quốc, đó là phần của chiến lược tuyên
truyền quốc tế”. Một số trường đại học bên Mĩ đã từ chối viện Khổng Tử.
Nhưng giới trí thức ở VN thì không có cái may mắn có tiếng nói như đồng
nghiệp bên Mĩ.
Trong 1000 năm Tàu đô hộ Việt Nam, Tàu không hề xây dựng một lăng
miếu Khổng Tử nào cả. Có lẽ đó là chính sách ngu dân của Tàu thời đó. Ấy
thế mà ngày nay họ trịnh trọng đem cái viện Khổng Tử đó sang Việt Nam!
Nhưng chúng ta có muốn học cái văn hoá "hũ tương" của Tàu? Ngày xưa, có
người như Phan Kế Bính, một học giả xuất chúng, rất sùng ái Khổng Tử.
Trong một tranh luận với Phạm Quỳnh, Phan Kế Bính viết rằng: "Đạo lí là
đạo lí Khổng Mạnh. Như vậy phải chăng các dân tộc không biết tới Khổng
Mạnh là những dân tộc không có đạo đức?" Kinh chưa! Nhưng ngày nay,
chúng ta thấy Tàu chẳng có cái gì để chúng ta học cả. Chính quyền Tàu
đem đến VN toàn những rủi ro, độc hại, và nguy cơ. Người Nhật, người Hàn
đã thoát Tàu và đã đạt thịnh vượng. Không có lí do gì để chúng ta phải
du nhập những giá trị "hũ tương", "hũ mắm thập cẩm" đó để kìm hãm sự
phát triển của dân tộc và đất nước.