Nguyễn Hưng Quốc
Trong bài “Những ngày cuối cùng của đảng Cộng sản?” (The last days of
the Communist Party?) đăng trên tạp chí World Affairs ngày 23 tháng 12
năm 2014, Michael J. Totten mở đầu bằng một nhận định: “Việt Nam là một quốc gia độc đảng độc tài trông có vẻ như một xứ tự do”.
Rất nhiều người chỉ thấy mệnh đề sau “trông có vẻ như một xứ tự do”
mà quên bẵng đi mệnh đề đầu “độc đảng độc tài” (authoritarian one-party
state).
Cách đây hơn một tháng, tôi được mời giảng dạy một khoá ngắn về ngôn
ngữ, văn hoá và chính trị Việt Nam cho một nhóm sinh viên Úc chuẩn bị
sang Việt Nam nghiên cứu trong mấy tuần. Trong số ấy, có nhiều sinh viên
đã từng du lịch sang Việt Nam. Họ có vẻ thích Việt Nam. Khi tôi hỏi
cảm tưởng của họ về không khí chính trị tại Việt Nam, tất cả đều cho
Việt Nam không có vấn đề gì về dân chủ và nhân quyền. Nó hoàn toàn khác
với các quốc gia Hồi giáo hoặc Bắc Hàn hay ngay cả Trung Quốc mà họ từng
biết. Ở Việt Nam, họ có thể đi khắp nơi, nói về mọi đề tài và làm bất
cứ thứ gì họ muốn. Rất hiếm thấy công an hoặc nếu thấy, công an cũng
không gợi lên bất cứ một ấn tượng đe doạ nào. Vào internet, họ cũng
không gặp dấu hiệu nào của sự kiểm duyệt. Theo họ, Việt Nam khá dân
chủ. Khi tôi kể kinh nghiệm của bản thân tôi, một nhà giáo và một người
cầm bút tuyệt đối không tham gia chính trị, bị cấm nhập cảnh vào Việt
Nam hai lần mà không có lý do gì cả, họ rất ngạc nhiên. Và thú nhận: đó
là điều họ không hề biết.
Thật ra, việc không biết như vậy cũng không có gì đáng ngạc nhiên.
Tất cả những người ngoại quốc cho Việt Nam dân chủ đều là những kẻ cưỡi
ngựa xem hoa. Họ chỉ đến Việt Nam vài tuần hoặc nhiều hơn, vài ba tháng.
Họ không thấy được bản chất của chế độ cũng là điều dễ hiểu. Đáng ngạc
nhiên hơn là chính người Việt Nam, chắc không phải ít, cũng cho là Việt
Nam dân chủ hoặc khá dân chủ. Tôi gặp khá nhiều người, hầu hết thuộc
thành phần trí thức, từ Việt Nam sang Úc với tư cách du lịch hoặc thường
trú nhân (do thân nhân bảo lãnh). Phần lớn đều cho Việt Nam không còn
độc tài nữa. Họ nêu lên ba lý do chính: Một, so với trước đây, Việt Nam
càng ngày càng đi xa trên tiến trình dân chủ hoá; hai, ở Việt Nam, ngay
trong lãnh vực chính trị, chính phủ cũng hành xử một cách dân chủ: dân
chúng có thể thoải mái phê phán chính quyền một cách công khai trong các
tiệm cà phê hay quán nhậu, thậm chí, trên các blog hay facebook; và ba,
giới hạn trong phạm vi chính trị, nếu chính phủ thiếu dân chủ thì, tính
chất thiếu dân chủ ấy vừa rất ít vừa có thể “thông cảm” được vì Việt
Nam hiện đang đối diện với nguy cơ xâm lấn từ Trung Quốc.
Tôi cho nhận định của những người Việt Nam kể trên cũng như những
người ngoại quốc đến Việt Nam một thời gian ngắn ngủi đều xuất phát từ
sự mê hoặc trước ảo tưởng dân chủ mà nhà cầm quyền Việt Nam cố tình tạo
nên để đánh lừa mọi người.
Để thoát khỏi sự lừa dối ấy, cần, nói theo ngôn ngữ cộng sản vẫn
thường dùng trước đây, phân biệt bản chất và hiện tượng. Hiện tượng: ở
Việt Nam, hầu như người ta có thể phát biểu về đủ thứ chuyện. Bản chất:
đàng sau hiện tượng ấy, có một khu cấm: chính trị. Trong chính trị, về
hiện tượng, người ta có thể phê phán chính quyền một cách gay gắt, tuy
nhiên, về bản chất, có hai điều đáng chú ý: Một, chỉ phê phán bằng
miệng; hai, nếu viết, người ta phải biết dừng lại ở một điều cấm kỵ: phê
phán giới lãnh đạo. Trước, có ba điều cấm kỵ: Hồ Chí Minh, đảng cộng
sản và giới lãnh đạo đương tại chức. Sau này, những khu vực cấm kỵ ấy
dường như được thu hẹp lại. Phê phán Hồ Chí Minh? Người ta có thể khó
chịu nhưng ít khi có phản ứng quyết liệt. Phê phán đảng Cộng sản? Dường
như có tâm lý: cha chung không ai khóc. Nhưng đừng phê phán cá nhân
những người đang cầm quyền. Đụng đến họ, nếu không phải chính họ thì
cũng có đàn em của họ xúm vào trả thù ngay tức khắc.
Để đánh giá một chế độ cần nhìn vào cơ chế. Cơ chế ấy, ở Việt Nam,
vẫn độc đảng, không hề có cạnh tranh và đối lập, hai yếu tố quan trọng
nhất của dân chủ. Còn một yếu tố thứ ba nữa: sự minh bạch, Việt Nam hoàn
toàn không có. Mọi chính sách của nhà nước, từ lớn đến nhỏ, đều… bí
mật. Ngay cả đối với một vấn đề ai cũng quan tâm: quan hệ với Trung
Quốc, người dân vẫn không hề biết giới cầm quyền Việt Nam đã cam kết gì
với Trung Quốc trong hội nghị Thành Đô năm 1990 cũng như những kế sách,
nếu có, họ đang theo đuổi để bảo vệ biển đảo của Việt Nam trước các âm
mưu lấn chiếm của Trung Quốc.
Không phải ngẫu nhiên mà, theo các bảng xếp hạng của các tổ chức
quốc tế, Việt Nam bao giờ cũng nằm ở cuối hoặc gần cuối về mức độ dân
chủ, đặc biệt dân chủ trong lãnh vực truyền thông. Căn cứ vào các vụ
bắt bớ dân chúng cũng như các biện pháp trừng phạt những người dân dám
lên tiếng phản đối chính phủ được tường thuật trên báo chí, người ta
cũng dễ dàng nhận thấy Việt Nam hoàn toàn không có dân chủ.
Trong bài báo dẫn ở đầu bài viết này, Michael J. Totten cho rằng mặc
dù nhà cầm quyền Việt Nam vẫn độc tài nhưng sự độc tài của họ không quá
khắc nghiệt như Bắc Triều Tiên, Cuba hay Trung Quốc. Nó giống hơn với
thời kỳ tiền-dân chủ (pre-democratic) ở Đài Loan hay Nam Triều Tiên
trước đây. Với cái nhìn như thế, ông hy vọng những năm tháng chúng ta
đang sống hiện nay là những ngày cuối cùng của chế độ cộng sản.
Trong lúc chúng ta mong sự lạc quan của Totten không phải là một ảo
tưởng, chúng ta cũng nên biết một sự thật: Không có chế độ độc tài nào
tự động chuyển sang dân chủ cả. Nói theo cách nói của Tây phương, tự do
không bao giờ miễn phí (freedom ain't free). Tự do bao giờ cũng là kết
quả của các cuộc đấu tranh. Điều đó cũng có nghĩa là tự do không đến từ
chính phủ, từ trên xuống, như một kiểu phân phát hay ban bố. Tự do bao
giờ cũng từ dưới lên, bắt đầu từ dân chúng, những người biết tự do là
cái quyền căn bản của mình và sẵn sàng trả giá để có được cái quyền ấy.
Khi dân chúng không chấp nhận trả giá, cái gọi là những ngày cuối
cùng (last days) có thể kéo dài, có khi, kéo dài mãi, cả mấy thập niên.