Trương Nhân Tuấn
Luật Sư cho phép tôi đặt câu hỏi :
1/
Luật Sư chủ trương thực thể chính trị VNCH (cũng như VNDCCH) là một
«quốc gia độc lập (indépendant), có chủ quyền (souvetaineté)». Luật sư
cũng chủ trương VN phải kiện TQ về tranh chấp HS và TS.
Như
vậy, với «tư cách pháp nhân» nào nhà nước CHXHCNVN hôm nay đứng ra kiện
TQ (ra tòa CIJ hay một Tòa quốc tế nào đó) về các tranh chấp Hoàng Sa
và Trường Sa? CHXHCNVN, VNDCCH, VNCH hay CPCMLT CHMNVN?
Trung
Quốc đã chiếm Hoàng Sa trên tay VNCH (với lý do: giải phóng một vùng
lãnh thổ đang bị ngoại nhân chiếm đóng). VNDCCH là một quốc gia thứ ba,
hoàn toàn xa lạ với VNCH. Trong khi CP CMLTMNVN không thể kế thừa HS từ
VNCH, vì không thể kế thừa một lãnh thổ đã mất.
Vào
thời điểm 17-1-1974 TQ chiếm HS, chính phủ VNDCCH im lặng trong khi các
nước như Liên Xô, Mỹ... phản đối hành vi sử dụng vũ lực của TQ. Hành vi
im lặng, đối với công pháp quốc tế, được hiểu như là sự đồng thuận ám
thị. Trong khi MTGPMN tuyên bố rằng các tranh chấp phải được giải quyết
bằng thương thuyết. Thực thể chính trị này (cũng như VNDCCH) từ chối ký
tên chung với VNCH trong bản tuyên bố lên án TQ xâm lăng.
Trên các văn bản quốc tế sau 1975, CHXHCNVN tuyên bố là «tiếp tục - continue» VNDCCH.
Như
vậy, quốc gia CHXHCNVN hoàn toàn xa lạ với VNCH (là một quốc gia độc
lập có chủ quyền, như lập luận của Luật sư), thì tư cách gì có thể kiện
TQ về tranh chấp Hoàng Sa?
Theo tôi, khi mà Luật
sư cho rằng VNCH (và VNDCCH) là hai quốc gia «độc lập, có chủ quyền»
thì vấn đề tranh chấp Hoàng Sa sẽ không còn hiện hữu. VN hiện nay (cũng
như các thế hệ VN trong tương lai) sẽ không có tư cách nào để thuyết
phục dư luận quốc tế rằng «có tranh chấp» tại Hoàng Sa, chứ đừng nói đòi
lại.
2/ LS cho rằng «công điện» 1958 của ông Phạm Văn Đồng chỉ nhìn nhận hải phận 12 hải lý của TQ.
Vấn
đề là trong tuyên bố về hải phận của TQ, hiệu lực 12 hải lý áp dụng cho
cả Tây Sa (tức Hoàng Sa) và Nam Sa (tức Trường Sa). Công hàm 1958 của
VN có nội dung «ghi nhận và tán thành» tuyên bố của TQ.
Câu hỏi là VN hôm nay có thể chỉ nhìn nhận hiệu lực 12 hải lý tại mọi vùng lãnh thổ của TQ, ngoại trừ HS và TS?
3/
Đây không phải là một câu hỏi, mà chỉ là một cảnh báo về sai lầm của
Luật Sư khi nhìn nhận hiệu lực (12 hải lý) của công hàm 1958.
Khi
Luật Sư cho rằng công hàm 1958 chỉ nói về hiệu lực 12 hải lý, thì mặc
nhiên nhìn nhận hiệu lực pháp lý của công hàm này (cho dầu chỉ nhìn nhận
ở nội dung hải phận 12 hải lý).
Về nội dung
công hàm 1958, tác giả của nó là ông Phạm Văn Đồng đã nhìn nhận: «lúc đó
là thời chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy». Dữ kiện này đã được
báo chí quốc tế ghi chép lại (tờ Far Eastern Economic Review ngày
10-02-1994).
Tức là công hàm 1958 nhìn nhận tuyên bố của TQ về hải phận 12 hải lý ở các đảo, kể cả Hoàng Sa và Trường Sa.
Luật sư chắc chắn phải biết luật về «thời hiệu – contemporaneité» của công pháp quốc tế.
Tuyên
bố về hải phận của Trung Quốc năm 1958 phù hợp Luật biển 1958. Tuyên bố
này sẽ được nhìn nhận hiệu lực chiếu theo nội dung của Luật biển 1982.
Tức là, ngoài lãnh hải 12 hải lý, bờ biển và các hải đảo của TQ sẽ được
hưởng vùng kinh tế độc quyền (ZEE) 200 hải lý, đúng theo nội dung của
Luật biển 1982.
Điều này thể hiện trên thực tế.
VN đã tôn trọng điều này. Vấn đề là hiệu quả 200 hải lý ZEE có thể áp
dụng cho các đảo Hoàng Sa và Trường Sa hay không ?
Câu
hỏi đặt ra để cho thấy là, hành vi nhìn nhận hiệu lực 12 hải lý về hải
phận của Luật Sư (và nhiều học giả VN) đã đưa VN vào tư thế rất bất lợi:
tranh cãi về hiệu lực vùng kinh tế độc quyền 200 hải lý tại các đảo
thuộc Hoàng Sa (thuộc TQ).
Và điều này sẽ xảy ra tại Trường Sa.
Với
tất cả lòng kính trọng, thưa Luật Sư NGUYÊN LE-HA, tôi cho rằng nếu
không nhanh chóng loại bỏ các lập luận tương tự (nhằm hóa giải hiệu lực
công hàm 1958), VN không chỉ mất cùng biển Hoàng Sa (như vùng biển hiện
nay đặt giàn khoan 981), mà VN sẽ mất cả vùng biển Trường Sa.
Trân trọng,
Trương Nhân Tuấn.
Đính kèm: giải pháp đề nghị.
Vấn
đề giàn khoan 981 và tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa có thể sẽ giải
quyết bằng một phương cách khác, vừa phù hợp với thực tế lịch sử cũng
như quốc tế công pháp, vừa đem lợi ích cho đất nước và dân tộc Việt Nam.
Đó
là áp dụng tinh thần Hiệp định Genève 1954 và Hiệp định Paris 1973.
Theo tinh thần hai hiệp định quốc tế này, hai thực thể chính trị VNCH và
VNDCCH không phải là hai «quốc gia độc lập, có chủ quyền».
Trên
phương diện thực tế và lịch sử, 20 tháng 7 năm 1954, hiệp định Genève
quyết định phân chia quốc gia VN thành hai miền tại vĩ tuyến 17. Hiệp
định nhấn mạnh việc phân chia chỉ tạm thời, đường vĩ tuyến 17 trong bất
kỳ trường hợp nào, không thể xem đó là đường biên giới phân định lãnh
thổ hay chính trị. Hai miền Nam và Bắc lần lượt mang tên Việt Nam Cộng
Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nội dung Hiệp định Genève xác nhận VN
là nước «độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, có chủ quyền và thống nhất».
Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, do ở phía nam vĩ tuyến 17, do đó thuộc quyền quản lý của VNCH.
Hiệp
định Paris năm 1973 xác định lại nội dung hiệp định Genève 1954 : «VN
là nước độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, có chủ quyền và thống nhất».
Cả hai hiệp định này đều được bảo trợ của Trung Quốc, cũng như các cường quốc Mỹ, Anh, Pháp…
Năm
1956 VNCH công bố Hiến pháp, điều 1 khẳng định: VN là một nước cộng
hòa, độc lập, thống nhất và bất khả phân. Về phía VNDCCH, Hiến pháp
1946, điều 2 xác định VN là một khối thống nhất bắc, trung, nam không
thể phân chia. Hiến pháp 1959, những dòng đầu đã khẳng định VN là một
nước thống nhất từ Lạng Sơn đến Cà Mau.
Cả hai
miền như vậy đều tôn trọng nội dung hiệp định Genève 1954: Việt Nam là
một quốc gia thống nhất (ba miền) độc lập và có chủ quyền.
Điều
này thể hiện lên thực tế. Trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1973,
không có bất kỳ quốc gia nào trên thế giới nhìn nhận sự hiện hữu của hai
quốc gia Việt Nam. Khối Tư bản nhìn nhận VNCH là đại diện của nước Việt
Nam duy nhất. Khối XHCN công nhận VNDCCH là đại diện nước VN duy nhất.
Nước này nhìn nhận phía này thì không nhìn nhận phía kia, hay ngược lại.
Tức là, trên thế giới chỉ hiện hữu một quốc
gia VN duy nhất. Hai thực thể VNCH và VNDCCH, nói theo ngôn ngữ công
pháp quốc tế, là hai «quốc gia chưa hoàn tất – Etat partiel».
Ngoài
ra, thời điểm phát xuất công hàm 1958 của cố TT Phạm Văn Đồng, phía
VNDCCH vẫn còn có nguyện vọng thống nhất đất nước. Nhiều lần phía VNDCCH
hối thúc VNCH, cho đến năm 1960, thương nghị giữa hai miền để tiến tới
thống nhất Việt Nam theo nội dung của Hiệp định Genève 1954.
Như vậy, trên quan điểm công pháp quốc tế, nước VN chỉ có một, thống nhất ba miền, toàn vẹn lãnh thổ, độc lập, có chủ quyền.
Trên
tinh thần các kết ước quốc tế 1954 và 1973, bất kỳ các tuyên bố, các
hành vi đơn phương của một bên (VNCH hay VNDCCH), như công hàm 1958 của
Phạm Văn Đồng, cũng như một số các hành vi khác của VNDCCH trong khoảng
thời gian 1954-1976 có thể diễn giải là hành vi từ bỏ chủ quyền ở Hoàng
Sa và Trường Sa, vì đe dọa đến việc toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, do
đó chúng đều không có giá trị pháp lý.
Về vấn
đề kiện tụng Trung Quốc về vụ giàn khoan 981 cũng như về tranh chấp chủ
quyền Hoàng Sa và Trường Sa, tôi có đề nghị như sau:
Ta
thấy tổ chức Liên Hiệp Quốc, qua phát ngôn nhân của tổ chức, mới đây
cho biết đã đồng ý làm trung gian để hòa giải tranh chấp hai bên Việt
Nam và Trung Quốc. VN cần nhanh chóng nắm lấy cơ hội này, bằng các :
Đệ đơn đề nghị Tòa Công lý Quốc tế (CIJ) tuyên bố một số điều :
- Việc chiếm hữu một lãnh thổ bằng phương pháp vũ lực là vi phạm các nguyên tắc cơ bản của LHQ.
-
Việc chiếm hữu các đảo ở Trường Sa (lập danh sách chi tiết các đảo) năm
1988 bằng vũ lực không đem lại cho Trung Quốc danh nghĩa chủ quyền.
- Việc chiếm hữu quần đảo Hoàng Sa tháng giêng năm 1974 bằng vũ lực không đem lại cho Trung Quốc danh nghĩa chủ quyền.
Nếu cần thiết (để mở cho Trung Quốc một bước lùi chiến lược), kiện TQ về lý do:
-
Vi phạm nội dung Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Việt 30-12-2000 về việc
chủ trương hiệu lực các đảo, áp dụng cho việc phân định ngoài cửa vịnh
Bắc Việt.
Ba điều đầu tiên yêu cầu Tòa tuyên bố
hoàn toàn thuộc về quyền của quốc gia Việt Nam, là thành viên các công
ước và các nguyên tắc cơ bản của LHQ. Đồng thời việc giải thích nội dung
các điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền của Tòa CIJ. (Các điều ước quốc
tế liên quan gồm: Công ước Drago-Porter 1907, Hiến chương LHQ điều 2
khoản 4 ngày 26-6-1945, hay Tuyên bố của Đại hội đồng LHQ 18-11-1987).
Đặc biệt các yêu cầu này không liên quan đến các bảo lưu của TQ về việc
phân giải tranh chấp chủ quyền bằng trọng tài quốc tế.
Mục
đích việc yêu cầu Tòa tuyên bố, nếu thành công (điểm 3), sẽ đưa quần
đảo Hoàng Sa (không có tranh chấp, theo TQ) vào tình trạng «có tranh
chấp».
Nếu VN thua, tức Tòa không tuyên bố
(không có ý kiến), thì VN cũng không có gì để mất. Trong vụ yêu cầu Tòa
tuyên bố này không hề nói đến chủ quyền các đảo (HS và TS) là của ai, mà
chỉ nói đến việc nhìn nhận hay không nhìn nhận, danh nghĩa chủ quyền
nếu việc chiếm hữu thực hiện bằng vũ lực.
Còn nếu thắng, VN được nhiều thứ.
Theo
tập quán quốc tế, «đất thống trị biển». Nếu các đảo Hoàng Sa là lãnh
thổ «có tranh chấp» thì vùng biển phát sinh từ nó cũng có tranh chấp.
Vị
trí giàn khoan 981 có thể được xem nằm trong vùng biển «có tranh chấp»
mà tranh chấp này phát sinh từ chủ quyền các đảo HS chứ không phải phát
sinh do chồng lấn hải phận (giữa bờ biển VN với các đảo HS, theo như lập
luận của TQ hiện nay).
Theo thông lệ quốc tế,
nếu lãnh thổ có tranh chấp, việc giải quyết thường là chia hai (hay cộng
đồng khai thác), mỗi bên được một phần của lãnh thổ đó. Tức là, quần
đảo HS có thể chia hai, thí dụ hai nhóm Nguyệt Thiềm và An Vĩnh. VN có
thể nhận nhóm Nguyệt Thiềm (phía tây) và giao cho TQ nhóm An Vĩnh (phía
đông). Hải phận sinh ra do quần đảo này do đó cũng sẽ chia hai.
Đó là cái lợi thứ nhất.
Cái
lợi thứ hai ở Trường Sa. Nếu tòa tuyên bố, thì TQ không có chủ quyền
tại các đảo của VN tại TS. TQ sẽ không thể tuyên bố vùng «nhận diện
phòng không» trong khu vực này được.
Cái lợi
thứ ba, là VN dành được tính «chính đáng». Nhiều người cho rằng các phán
quyết của Tòa cũng không làm gì, nếu TQ không tuân thủ.
Theo
tôi, phán quyết của Tòa có tầm quan trọng rất lớn. Trong vụ giàn khoan
981, nếu TQ không rút giàn khoan, VN có thể dùng các biện pháp để bảo vệ
quyền lợi của mình. Việc «bảo vệ» ở đây mang tính tự vệ chính đáng,
được hiến chương LHQ công nhận.
Đây là một việc
làm ít tốn kém, đáng lẽ không cần phải đưa ra một tổ hợp luật sư nào.
Tuy nhiên, để nắm chắc phần thắng, đơn không bị bác do lỗi thủ tục, VN
nên thông qua một tổ hợp luật sư chuyên môn ở HK.
T.N.T.
Tác giả gửi BVN