Bùi Bảo Trúc
Bức ảnh không biết được chụp ở đâu vì background không rõ
lắm. Chỉ là những chấm sang xanh đỏ của đèn đêm. Trong hình có hai phụ
nữ tóc đen, rõ ràng là người Á Châu. Một người ở gros plan có cầm trong
tay một tấm bìa trắng có những chữ viết bằng bút đỏ. Kiểu chữ cho thấy
người viết phải là người Việt vì dấu được đánh rõ ràng, đúng chỗ, không
phải là người không biết chữ Việt chỉ cố gắng ... vẽ lại những chữ đó
một cách vụng về.
Hàng chữ nguyên văn như thế này, “Bán trôn không bán nước.”
Trôn là tiếng ngày nay thấy ít có người dùng nhưng ý nghĩa thì mọi
người đều hiểu. Ít người dùng có thể một phần là vì ý nghĩa của nó không
thanh tao lắm. Ngay khi dùng nó, người ta cũng dùng để tránh khỏi phải
dùng cái tên chỉ bộ phận kia, thô tục hơn nhiều. Trôn là bộ phận dưới
cùng của cơ thể con người dùng trong việc bài tiết. Người ta dùng trôn
để không phải gọi bộ phận kia bằng đích danh của nó. Cũng có thể để đối
với “miệng,” người ta dùng “trôn” chăng?
Câu tục ngữ xuất hiện trong các từ điển tiếng Việt đều ghi rõ là “bán trôn nuôi miệng.”
Nhưng dù gì chăng nữa thì “bán trôn nuôi miệng” cũng là việc làm
không tử tế và danh giá bao giờ. Nói thẳng ra, “bán trôn nuôi miệng”
là... làm đĩ.
Bán cái bộ phận ấy để nuôi thân thì vừa thảm vừa nhục nhã. Nhục nhã
vì phải dùng cái bộ phận ấy ở phía dưới, không sạch sẽ để nuôi cái bộ
phận ở trên cao, nơi dùng để ăn, để ăn uống nuôi cơ thể, lại còn là nơi
phát ra tiếng nói, là “tú khẩu cẩm tâm,” là lời vàng tiếng ngọc. Ðem bán
cái ở dưới để nuôi cái ở trên thì còn gì thảm hơn, nhục nhã hơn?
Những người phải làm công việc ấy không bao giờ được dành cho những
sự đối xử tử tế, nếu không nói thẳng ra là bị khinh bỉ, ghê tởm nhất
trong xã hội.
Người phụ nữ trong bức ảnh không biết có làm cái nghề bán cái bộ phận
ấy hay không. Trông cô có vẻ hiền lành hơn là hình ảnh chúng ta có sẵn
trong đầu. Cô có nét mặt không vui. Một tay cầm tấm bìa, tay trái chỉ
vào hàng chữ trên tấm bìa. Hàng chữ khẳng định cô có thể bán cái ấy của
cô nhưng cô không bán nước.
Chao ôi, cô sẵn sàng nhận cô làm đĩ. Cô nói thẳng ra như vậy. Cô không giấu giếm chuyện làm đĩ của cô.
Nghề của cô không vinh dự và cao quí gì nhưng cô vẫn sẵn sàng nhận là
cô làm việc đó. Cô đem bán cái của cô. Cô không đem bán những thứ không
phải của cô, những thứ của dân tộc, của tổ tiên lịch sử để lại.
Những thứ ấy thì cô không bán. Cô không bán cả mấy ngàn cây số vuông ở
gần biên giới miền bắc, không tự động dâng hết đất lại đến biển, nhường
quyền khai thác các tài nguyên, quặng mỏ cho nước ngoài, không cho
người ngoài ngang nhiên vào sinh sống xây nhà cửa thành phố như những
vùng đất hoang vô chủ.
Nhìn cô người ta không thể không nghĩ tới bài thơ của Ðỗ Mục, bài Tần
Hoài Dạ Bạc. Ðỗ Mục có vẻ buồn trong bài thơ ông viết trong đêm neo
thuyền ở bến sông Tần Hoài:
Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu Ðình Hoa.
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu Ðình Hoa.
Ðời sau, nhiều người cho là Ðỗ Mục quá khe khắt với người thương nữ.
Ðâu phải người thương nữ nào cũng thản nhiên vô tình với cảnh mất nước
nhà tan. Mà cũng đâu phải những người không phải là thương nữ cũng đều
biết đau niềm đau mất nước.
Người thương nữ trong bức ảnh cầm tấm bìa nhận là cô có làm đĩ thật
nhưng việc cô chỉ bán cái trôn của cô. Cô bị đẩy tới việc phải theo nghề
làm đĩ vì cái đất nước nằm trong tay cai trị của một bọn chó má tệ lậu
hèn với giặc, ác với dân đem biển đảo ngoài khơi, đất đai tiền nhân để
lại đem bán hết cho giặc rồi nhâng nhâng nháo nháo khoe giữ nước, với
lại dựng nước.
Ðể cô đứng cạnh những thứ như thế thì cô vẫn là người đáng quý trọng
hơn nhiều. Trông cô bình thản không mắc cỡ gì về cách kiếm sống của cô
chút nào.