Phần I: Hiệp Định Geneve 1954
Bối cảnh lịch sử
Cuộc chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh 1946 -1954 đã được 8 năm ,
hai bên đều mệt mỏi thiệt hại nhiều nhân mạng. Điện Biên Phủ, trận đánh
lớn nhất trong cuộc chiến này bắt đầu ngày 13-3-1954, quân Pháp yếu thế
rõ rệt so với Việt Minh.
Gần cuối tháng 3 Pháp chính thức yêu cầu Mỹ cho oanh tạc ồ ạt cứu
nguy mặt trận, Tổng thống Eisenhower và Bộ tham mưu, các cố vấn tòa Bạch
ốc nghiên cứu kế hoạch rồi tham khảo ý kiến các vị đại diện Quốc hội.
Giới Lập pháp đòi Hành pháp phải thực hiện 3 điều kiện để được Quốc hội
ủng hộ:
- Phải có sự tham gia các nước Đông nam Á, các nươc Liên hiệp Anh
- Pháp phải trả độc lập cho Việt, Mên, Lào
- Pháp phải ở lại chiến đấu chống CS
- Phải có sự tham gia các nước Đông nam Á, các nươc Liên hiệp Anh
- Pháp phải trả độc lập cho Việt, Mên, Lào
- Pháp phải ở lại chiến đấu chống CS
TT Eisenhower theo yêu cầu các vị đại diện Quốc hội cử ngoại trưởng
Dulles vận động Anh, Pháp và các nước Đông nam Á tham gia liên minh quân
sự. Mặc dù khẩn khoản xin Mỹ oanh tạc cứu nguy nhưng Pháp không chịu
tham gia Liên minh và đi tìm hòa bình vì bị trong nước chống đối. Người
dân, báo chí Pháp cho rằng cuộc chiến nay chỉ là đánh thuê cho Mỹ. Pháp
tin tưởng vào Hội nghị Genève sẽ khai mạc ngày 26-4-1954, họ cho biết
trường hợp nếu không ký được Hiệp định sẽ tiếp tục cuộc chiến. Người Anh
bác bỏ lời mời của Mỹ tham gia Liên minh và tin tưởng vào Genève, chỉ
tham gia chiên tranh nếu Hội nghị trở ngại. Mỹ khuyên Pháp tiếp tục cuộc
chiến không tham gia Hội nghị, họ coi Genève là sự thất bại vì sẽ phải
nhường đất cho Cộng Sản, họ biết rằng các cường quốc Tây phương cũng như
Cộng sản chủ trương chia đôi Việt Nam, trong lúc này Anh và Nga đã ngầm
chủ trương như vậy.
Mỹ thất bại không cứu được ĐBP vì Anh không chịu tham gia Liên minh mà Quốc hội yêu cầu.
Hiệp định Genève
Ngày 26-4 Hội nghị Genève (2) khai mạc để giải quyết các vấn đề Triều
Tiên và Đông Dương. Cuộc thảo luận Triều Tiên tại Genève không đạt kết
quả. Ngày 7-5-1954 ĐBP thất thủ, phái đoàn Pháp bị mất mặt tại Hội nghị,
cuộc họp thảo luận về Đông Dương thực sự bắt đầu ngày 8-5-1954. Các
nước tham dự và đại diện gồm Anh, ngoại trưởng Eden; Pháp, Bidault, sau
ngày 19-6 là Chauvel; Mỹ, Thứ trưởng ngoại giao Smith; Nga, ngoại trưởng
Molotov; Trung cộng, Thủ tướng Chu ân Lai; Quốc gia Việt Nam, Nguyễn
Quốc Định, đầu tháng 7 là Trần Văn Đỗ; Việt Minh Thủ tướng Phạm văn
Đồng. Hiệp định được ký kết ngày 20-7-1954 gồm 4 văn kiện
1- Hiệp định đình chiến tại Việt Nam
2- Hiệp định đình chiến tại Lào
3- Hiệp định đình chiến tại Cao Mên
4- Tuyên bố cuối cùng, không có chữ ký
2- Hiệp định đình chiến tại Lào
3- Hiệp định đình chiến tại Cao Mên
4- Tuyên bố cuối cùng, không có chữ ký
Phái đoàn Quốc gia Việt Nam và Hoa Kỳ không ký vào bất cứ văn kiện nào của Hiệp định
Hiệp Định Genève đình chiến ở Việt Nam gồm 6 chương 47 điều (Xin sơ lược)
Chương I – Giới tuyến quân sự tạm thời, khu phi quân sự. Thời hạn rút quân không quá 300 ngày từ 20-7
Chương II- Nguyên tắc và cách thức thi hành Hiệp định. Điều 14- Trong khi chờ tổng tuyển cử thống nhất đất nước, mỗi bên phụ trách quản trị hành chánh khu vực của mình. Thời hạn rút Hà nội 80 ngày, Hải dương 100 ngày, Hải phòng 300 ngày.
Chương III- Cấm đem thêm quân đội, nhân viên quân sự, vũ khí đạn dược mới vào căn cứ quân sự.
Chương IV –Tù binh và thường dân bị giam giữ: Thời hạn 30 ngày để trao trả tù binh.
Chương V- Điều khoản linh tinh
Chương VI Ban Liên Hợp và Ủy hội quốc tế ở Việt Nam: Ủy hội quốc tế kiểm soát đình chiến gồm Ấn độ (chủ tịch), Gia Nã Đại, Ba Lan.
Thứ trưởng quốc phòng Tạ Quang Bửu đại diện Việt Minh ký
Thiếu tướng Henri Deteil thay mặt Tư lệnh Đông dương ký
Chương I – Giới tuyến quân sự tạm thời, khu phi quân sự. Thời hạn rút quân không quá 300 ngày từ 20-7
Chương II- Nguyên tắc và cách thức thi hành Hiệp định. Điều 14- Trong khi chờ tổng tuyển cử thống nhất đất nước, mỗi bên phụ trách quản trị hành chánh khu vực của mình. Thời hạn rút Hà nội 80 ngày, Hải dương 100 ngày, Hải phòng 300 ngày.
Chương III- Cấm đem thêm quân đội, nhân viên quân sự, vũ khí đạn dược mới vào căn cứ quân sự.
Chương IV –Tù binh và thường dân bị giam giữ: Thời hạn 30 ngày để trao trả tù binh.
Chương V- Điều khoản linh tinh
Chương VI Ban Liên Hợp và Ủy hội quốc tế ở Việt Nam: Ủy hội quốc tế kiểm soát đình chiến gồm Ấn độ (chủ tịch), Gia Nã Đại, Ba Lan.
Thứ trưởng quốc phòng Tạ Quang Bửu đại diện Việt Minh ký
Thiếu tướng Henri Deteil thay mặt Tư lệnh Đông dương ký
Bản tuyên bố cuối cùng ngày 21-7-1954 gồm 13 điểm (3)
Bản tuyên bố cuối cùng về tái lập hòa bình Đông Dương không mang chữ
ký của bất cứ phái đoàn nào tham dự hội nghị, trong đó điều 7 nói nguyên
văn: “Hội nghị tuyên bố, giải pháp cho những vấn đề chính trị ở Việt
Nam dựa trên cơ sở tôn trọng độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ sẽ
cho phép người dân Việt Nam được hưởng nền tự do cơ bản thông qua kết
quả tổng tuyển cử tự do sẽ được tổ chức tháng 7-1956”
Sau khi Hội nghị khai mạc được một tháng và một tuần, vào ngày
4-6-1954, người Pháp đã trao trả độc lập hoàn toàn cho chính phủ Quốc
gia Việt Nam “Thủ tướng Bửu lộc dồn nỗ lực vào việc điều đình nhằm mục
đích kiện toàn độc lập cho Việt Nam. Sau ba tháng vận động và thảo luận,
ông đi tới kết quả là ký kết với chính phủ Pháp hai hiệp ước ngày
4-6-54. Như thế ông đã hoàn tất sứ mạng được giao phó và thỏa mãn ý
nguyện mà Quốc Trưởng Bảo Đại đã ấp ủ từ 1949” (4)
Việt Nam được độc lập hoàn toàn một tháng rưỡi từ 4-6 cho tới 20-7 thì bị chia đôi
Dưới đây là nhận định, ý kiến của các nhà bình luận Tây phương: Jean
Lacouture, ký giả lão thành người Pháp nói trong “Kết Thúc Một Cuộc
Chiến, Đông Dương năm 1954” chương 23 (5) Xin sơ lược. Tám năm chiến
tranh, 400,000 người chết, ba tháng thảo luận từ 26-4 tới 21-7, ông Trần
Văn Đỗ chống lại sự chia đôi đất nước. Tuyên bố sau cùng ngày 21-7 định
ngày Tổng tuyển cử cho Việt Nam vào tháng 7-1956, cần có sự tham khảo
giữa hai miền từ 20-7-1955 về trước.
Tại VN, thời hạn 300 ngày để hai bên rút quân về trên hoặc dưới vĩ
tuyến 17, sau 30 ngày trao trả tù binh. Tại Lào từ tháng 6 tới tháng 8
có hiệu lực. Tại Mên từ tháng 7 tới tháng 8 có hiệu lực
“Nói về quan điểm người Việt nam, thái độ hoàn toàn bác bỏ (Hiệp
định) của chính phủ Bửu Lộc và chính phủ Ngô Đình Diệm rất đáng kính
trọng. Người Việt chân chính Quốc gia hay Cộng sản không ai có thể chấp
nhận chia đôi đất nước dù chỉ là trong một khoảng thời gian”(6)
Việc chia đôi VN do hai mục đích chính của Pháp: cứu Quân đoàn viễn
chinh; để cho Quốc gia Việt nam thiết lập cơ sở sau một biên giới vững
chắc. Từ cuối tháng 6 Pháp ủng hộ việc chia đôi, từ ngày 10-6 Pháp đòi
chia VN tại vĩ tuyến 18. Cuối tháng 6, đồng minh Anh Mỹ đề nghị tại vĩ
tuyến 17. Phía Việt Minh mới đầu đòi chia tại vĩ tuyên 13, mười hai ngày
sau họ chuyển tới vĩ tuyến 14. Ngày 13-7 Phạm văn Đồng nhượng bộ lên
tới vĩ tuyến 16 dưới áp lực Chu Ân Lai và Dulles khi ngoại trưởng Mỹ này
tới Paris đã tạo áp lực lên phía CS. Thủ tướng Mendes-France đòi đưa
lên xa hơn. Đêm 19-7 đưa lên cao hơn một một ít dặm và trưa 20-7
Molotov, ngoại trưởng Nga đồng ý quan điểm của Anh-Mỹ (ngày 29-6) lấy vĩ
tuyến 17.
Một viên chức ngoại giao cao cấp của Pháp đã tham dự hội nghị cho
rằng: Thỏa thuận ngày 20-7 khiến phía Pháp có lợi. Ông ta lý luận tình
hình quân sự lúc đó rất nguy kịch, ta khó mà giữ được Hà nội cho dù gửi
thêm hai sư đoàn tuyển mộ cũng không giúp gì được. Hà Nội có thể bị cắt
khỏi Hải phòng chỉ trong một ngày. Nếu rui lui trong lửa đạn sẽ thiệt
hại nặng. Hải phòng cũng sẽ phải rút….mien Nam sẽ bị đe dọa vì ta tập
trung lực lượng ở miền Bắc.
Từ những thông tin đó ta thấy chia đất nước tại vĩ tuyến 13 đúng với
thực trạng hơn là tại vĩ tuyến 17 mà chúng ta đã làm được. Có nghĩa là
người Pháp đã đòi được nhiều hơn thực trạng chiến trường. Về ngày bầu cử
người Pháp ấn định nó thật xa hay không xác định ngày càng tốt và giao
trách nhiệm cho Ủy hội quốc tế. Vào ngày 15-7 Nga đề nghị cuối năm 1955.
Lúc 5 giờ chiều ngày 20-7, mọi người đồng ý với Molotov đề nghị hai
năm, Mỹ và Pháp muốn hoãn lại ít nhất 18 tháng.
Về thời hạn rút quân Pháp đề nghị 380 ngày, Việt Minh đề nghị ba
tháng, sau cùng thỏa thuận 300 ngày. Khác với Munich tháng 9-1938 để
tránh chiến tranh, Genève tháng 7-1954 vì Pháp quá mệt mỏi sau tám năm
khói lửa.
Thủ tướng Mendes-France trình bầy kết quả trước Quốc hội ngày 22-7
cho biết kết quả Hiệp Định không tốt đẹp. Chính phủ không bị chỉ trích
nhiều, đối lập cũng không đả phá, cả chủ bại và chủ chiến cũng tỏ vẻ ủng
hộ. Quốc hội chấp thuận với đa số phiếu lớn sau ba lần biểu quyết ngày
23-7. Báo Le Figaro ngày 21-7 viết: Chúng ta đau buồn vì quyền lợi của
chúng ta ở Viễn đông mất một nửa, phần còn lại cũng bị lung lay. Thế
giới Tự do phải nhường đất cho CS, cũng đau buồn nhưng dù sao cũng cám
ơn Thủ tướng Mendes-France đã khiến cho máu của người Pháp không còn
chẩy cho một cuộc chiến vô vọng.
Ngày 21-7, Tổng thống Eisenhower trả lời phỏng vấn nói ông không chỉ
trích những gì đã làm ở Genève vì ông không có giải pháp nào hay hơn để
đề nghị. Ngoại trưởng Pháp Chauvel nói: “không có kết thúc tốt đẹp cho
một việc tồi tệ”. Eden nói cùng một ý nghĩ nhưng mang vẻ lạc quan “Chúng
tôi đã cố gắng hết mình”. Tôi xin đề cập nhận định về Genève. Fredrik
Logevall, Giáo sư sử Mỹ, nói trong cuốn Tro Tàn Cuả Chiến Tranh, Sự Suy
Tàn Của Một Đế Quốc Và Sự Thành Hình Một Việt Nam, phần năm (7)
Logevall nói hòa ước đình chiến giữa Pháp và Việt Minh chia đôi (VN)
tại vĩ tuyến 17, và khu phi quân sự chiều ngang 6 dặm dọc theo vĩ tuyến.
Pháp rút vào Nam, Việt Minh ra Bắc, Hiệp định cấm hai bên không được
liên kết quân sự với nước khác và nhận viện trợ quân sự. Thành lập Uỷ
hội quốc tế do Ấn độ làm chủ tịch để kiểm soát, Hiệp định công nhận
đường phân chia chỉ là tạm thời như trong tuyên bố sau cùng, một văn
kiện không có chữ ký mà chỉ được xác nhận bằng miệng (8) trong phiên họp
cuối cùng trưa 21-7. Ranh giới chỉ là tạm thời không được coi là biên
giới quân sự hay chính trị. Tuyên bố cuối cùng dự trù một cuộc tổng
tuyển cử bằng phiếu kín trên toàn cõi VN vào tháng 7-1956 với sự tham
khảo đại diện hai miền trước đó một năm (tháng 7-1955).
Mỹ và chính phủ QGVN không ưng thuận kết quả Hiệp định. Thứ trưởng
ngoại giao Mỹ Smith nói chúng tôi sẽ tiếp tục tìm sự thống nhất bằng bầu
cử có Liên hiệp quốc giám sát để bảo đảm dân chủ.
Thủ tướng Mendes-France nói: tối 20-7 một khó khăn đè nặng lên mọi cố
gắng của chúng ta mà ta không thể chống lại, ông nói người dân Pháp đòi
phải tìm hòa bình, không có gì sai lầm tối đó (20-7). Tôi đã thấy tận
mắt ý muốn của đại chúng mà ta đã thấy rõ, vâng tôi đã thấy định mệnh
hướng về ý muốn ấy.
Từ 1945 tới tháng 7-1954 Pháp đã đưa sang tổng cộng 489,560 người
lính tại Đông Dương gồm 233,467 người Pháp, 72,833 người Lê Dương,
122,920 Bắc Phi, 60,340 Phi châu. Ngoài ra còn hằng trăm ngàn quân bản
xứ Đông Dương hoặc các nước Liên kết (Việt, Mên, Lào) khi kết thúc Hội
nghị Genève, khoảng 110,000 người thuộc Liên hiệp Pháp bị thiệt mạng.
Logevall nói: Một câu hỏi được đặt ra là tại sao Việt Minh không đòi
được nhiều hơn? Hay nói khác đi tại sao người Pháp đàm phán giỏi hơn là
đánh trận? Trước đó Bidault nói Pháp yếu thế hơn Việt Minh trong ván
bài, Điện Biên Phủ thất thủ, Hải Phòng, Chấu thổ bị đe dọa, Quân đội
QGVN đào ngũ nhiều, tám trăm người một ngày. Người dân trong vùng thuộc
Pháp tại Bắc kỳ (châu thổ) mất tinh thần, trong khi đó người dân Pháp
đòi tìm hòa bình, đáng lý phải chia ở vĩ tuyến 13.
Một nhà ngoại giao Pháp tham dự hội nghị nói đúng ra chia ở vĩ tuyến
13 chứ không phải 17 vì Pháp yếu thế tại mặt trận. Nhưng sự thật lại
không thế, câu châm ngôn xưa “Ta chỉ thắng tại bàn hội nghị nếu thắng
tại chiến trường” lại không đúng trong trường hợp này. Các sử gia giải
thích kết quả của Genève là do áp lực của Sô viết và Trung cộng đối với
Việt Minh, đó là điểm quan trọng nhất.
Các siêu cường Cộng sản không muốn leo thang chiến tranh để tránh Mỹ
can thiệp trực tiếp. Nga, Tầu muốn tỏ sự sống chung hòa bình tại Á châu
và trên thế giới để tăng uy tín, Trung cộng muốn củng cố ảnh hưởng tại
Đông Dương và ngăn cản tham vọng bành trướng của Việt Minh. Mấy tuần
trước khi có Hội nghị người ta đã trao đổi nhau chủ trương phân chia,
Trung Cộng đóng vai chính trong việc kết thúc cuộc chiến Đông Dương. Các
viên chức Việt Minh buồn phiền vì áp lực quan thầy Cộng Sản là điều rõ
ràng. Sau phiên họp chót Phạm Văn Đồng nói với người phụ tá: Họ phản bội
chúng ta (ám chỉ Chu Ân Lai). Việt minh đàm phán giữa năm 1954 vì sợ Mỹ
can thiệp.
Nga Tầu đề nghị hoãn tổng tuyển cử 6 tháng mà Phạm Văn Đồng đã đề
nghị, Việt Minh tin là họ sẽ thắng trong cuộc bầu cử toàn quốc. Người
Tây phương nghĩ là Hồ Chí Minh sẽ thắng cử nên đã muốn định ngày xa hơn
hoặc không định ngày. TT Eisenhower nói có thể 80% người dân muốn bỏ
phiếu cho ông Hồ Chí Minh CS hơn là bỏ cho Quốc trưởng Bảo Đại. Cả Chu
Ân Lai và Molotov đều không muốn thúc dục bầu cử sớm, ngày 23-6 trong
một phiên họp tại Berne Thủ tướng Pháp nói tổng tuyển cử khi nào dân hai
miền đã bình tâm trở lại. Chu Ân Lai nói đàm phán thỏa thuận chính trị
sẽ do hai chính phủ VN trực tiếp bàn với nhau, ông không hề nói họ cần
thương thuyết ngay. Ngày 16-7-1954 Molotov đề nghị tổng tuyển cử tháng
6-1955, sau đó ông nói tháng nào trong năm 1955 cũng được. Tây phương từ
chối, Molotov đề nghị tháng 7-1956 tức hai năm sau.
Người Mỹ chỉ mong Hội nghị Genève tan vỡ không ký kết, Logevall khen
Mendes-France hứa tìm hòa bình trong một tháng, nếu thất bại ông sẽ từ
chức và ông đã thành công, ông ta cương quyết vừa hoàn thành sự thỏa
thuận và đạt được sự nhượng bộ (bên VM) cho Pháp. Tại Mỹ Eisenhower họp
báo cùng ngày nói một Hiệp định được ký kết ngăn chận đổ máu, nhưng ông
nhấn mạnh Mỹ không tham gia, không bị ràng buộc gì với Hiệp định vì nó
có những điều mà Mỹ không ủng hộ (mất đất). Nhiệm vụ chúng ta là thành
lập Liên minh chống bành trướng tại Đông Nam Á. Ông cũng biết là Hiệp
định tốt đẹp hơn là Pháp và Tây phương mong đợi. Ông cảm thấy những lời
cứng rắn của Mỹ qua bài diễn văn tháng 9-1953 của Dulles đã có kết quả,
ngoại trưởng Mỹ đã đe dọa trừng phạt Trung cộng nếu họ trực tiếp can
thiệp cuộc chiến.
Mỹ đe dọa can thiệp Đông Dương bằng quân sự khiến Nga, Trung cộng e ngại và ép Việt Minh phải nhượng bộ sau cùng.
Trước cuộc tổng tuyển cử dự trù tháng 7-1956, Mỹ có hai năm để xây dựng chính phủ miền nam VN khi không còn thực dân.
(Hết phần I)
© Trọng Đạt
© Đàn Chim Việt
© Đàn Chim Việt