Phần II: Cuộc Di cư vĩ đại
Như đã nói ở trên, thời hạn để quân Pháp và Chính phủ Quốc gia VN rút
xuống dưới vĩ tuyến 17 được ấn định: Hà nội 80 ngày, Hải dương 100
ngày, Hải phòng, 300 ngày, đây là địa điểm tập trung di cư. Người dân
tại hai bên vĩ tuyến có quyền đi theo quân đội của mình. Trước ngày ký
Hiệp định, tại Hà nội đã có nhiều nhà khá giả, trí thức mua vé máy bay
vào Nam. Khi Hiệp định Genève vừa được ký kết và có hiệu lực, tại các
thành phố lớn châu thổ sông Hồng: Hà Nội, Hà Đông, Hải Dương, Hải
Phòng…các gia đình trí thức, trung lưu hoặc làm việc cho chính phủ Quốc
gia đã vội vã khăn gói lên đường vào Nam ồ ạt.
Tại Hà Đông, Hà Nội giới trí thức, các trường trung học, đại học cũng
vội đi Nam, họ bán tống tang đồ đạc, máy móc để lên đường, một cái máy
hát quay đĩa giá mấy ngàn đồng chỉ bán năm, sáu trăm, đĩa hát, tiểu
thuyết rẻ như bèo. Những người đi đợt đầu được nhiều ưu đãi, có khi Ủy
hội quốc tế cho xe đến tận nhà đón đi, hàng ngày có bốn năm chục chuyến
bay Dakota chở hàng ngàn dân di cư vào Sài gòn cũng như các tầu Mỹ tại
Hải phòng liên tục chở người di cư. Những người này hoặc đã có kinh
nghiệm Việt Minh Cộng sản, hoặc sống sung túc, tự do quen không thể ở
lại được. Đối với họ Việt Minh là biểu tượng của nghèo nàn đói khổ, hà
khắc, Việt Minh đi tới đâu chỉ đem tới toàn là cảnh khốn cùng sơ xác mà
tâm lý con người ai cũng muốn tìm nơi sung túc, đất lành chim đậu.
Hai tháng rưỡi đã trôi qua từ ngày đình chiến, bọn trẻ tại các làng
Đào Nguyên, La Dụ, Đông Lao.. kéo nhau lên đê đón các anh bộ đội chiến
thắng Điện Biên trở về tiếp thu Hà Đông, Hà Nội. Các anh vui vẻ tử tế
khiến mọi người thấy một niềm vui lâng lâng của cuộc sống mới lạ do
những người từ hậu phương mang lại. Những người di cư hồi ấy phần nhiều
dân thành thị, ít người thôn quê, người dân quê không có ý thức Quốc
gia, Cộng sản, đối với họ, chính phủ nào, chế độ nào cũng vậy và họ chọn
ở lại. Thế rồi ngày vui qua mau, một tương lai u ám đen tối đã bắt đầu
hiện rõ, chính sách thuế nông do chính phủ ban hành khiến mọi người kinh
hoàng.Từ thời phát xít, thực dân chưa bao giờ người dân phải đóng thuế
và bị bóc lột xương tủy như thế. Thuế đánh gấp bốn, gấp năm lần thu
hoạch, nhiều nhà dâng hiến ruộng nương cho chính phủ cũng không được
chấp nhận, người ta không hiểu VM muốn gì, muốn đưa trung lưu, phú nông
vào con đường chết?
Chính phủ tiến hành làm đường tầu hỏa Mục Nam Quan sang Tầu để chở
thóc gạo đền ơn. Tại miền quê, nhiều nhà đã âm thầm lên đường “đi Nam”,
nay có tin nhà ông Năm đi Nam, mốt có tin nhà bác Cả đi Nam….Hà Nội đã
được tiếp thu tháng 10-1954, cờ đỏ sao vàng rợp phố nhưng vẫn được thông
thương với Hải Phòng, nơi sẽ được tiếp thu sau cùng. Người dân Hà Nội
vẫn được xuống Hải phòng nhưng phải làm giấy thông hành, nếu họ muốn vào
Nam thì vẫn chưa muộn,nhưng người nhà quê muốn di cư thì không phải là
chuyện dễ, trước hết phải có giấy thông hành mà giấy này chỉ cấp cho
người Hà Nội. Người miền quê muốn xuống Hải phòng nếu trên 18 tuổi phải
mượn, hoặc xin giấy thông hành của người Hà Nội rồi cạo sửa, dán ảnh của
mình vào, lấy củ khoai làm con dấu, triện giả đóng lên để lên tầu hỏa
xuống Hải phòng hiện vẫn thuộc chính phủ Quốc gia và Pháp. Tuy khó khăn
gian nan như thế nhưng nhiều người vẫn âm thầm ra đi trót lọt.
Tại
thành phố có tai mắt quốc tế, người dân tương đối đỡ sợ nhưng tại thôn
quê không khí ngột ngạt bắt đầu, người ta khuyến khích gây căm thù giai
cấp, đó là động lực thúc đẩy người dân rời bỏ quê cha đất tổ tha phương
cầu thực. Trên thực tế chỉ những tỉnh thuộc phạm vi châu thổ sông Hồng
như đã nói trên mới có cơ hội và điều kiện xuống Hải phòng ra đi, còn
nhưng tỉnh xa xăm như Nghệ An, Hà Tĩnh hoặc những vùng hậu phương như
Yên Bái, Lạng Sơn người dân dù muốn đi cũng không có cơ hội. Ngoài ra
đồng bào Thiên Chúa Giáo tại Ninh Bình, Phát Diệm cũng ra đi tập thể vô
cùng đông đảo.
Hai tuần sau khi ký Hiệp định, ngày 4-8-1954 chính phủ Pháp và Mỹ
thiết lập cầu không vận dài nhất thế giới lúc đó khoảng 1,200 cây số nối
liền phi trường Tân sơn Nhất Sài Gòn và các sân bay miền Bắc như Gia
Lâm, Bạch Mai Hà Nội và Cát Bi Hải phòng. Trung bình 6 phút có một máy
bay hạ cánh tại Tân Sơn Nhất, mỗi ngày có vào khoảng từ 2,000 tới 4,200
người di cư tới. Tổng kết là 4,280 lượt hạ cánh đưa vào Nam 213,635
người (9)
Nhưng phương tiện chính đưa dân di cư vào Nam là tầu thủy, các tầu há
mồm của Pháp tại cảng Hải Phòng đưa dân từ trong bờ ra vịnh Hạ Long để
lên những tầu lớn của Mỹ có sức chuyên chở khoảng 5,000 người. Những tầu
này chạy vào Nam vài ngày tới Sài Gòn, hầu hết các tầu chuyên chở là
của Mỹ. Tổng cộng 555,037 người di cư đã được chuyên chở bằng tầu thủy
vào Nam, vì số người di cư quá đông, Cao ủy Pháp đã xin gia hạn thêm ba
tháng, phía Việt Minh đã thỏa thuận nên ngày di cư cuối cùng thay vì là
19-5 được rời lại 19-8, chuyến tầu thủy cuối cùng cập bến Sài Gòn ngày
16-8-1954. Ngoài ra khoảng 103,000 người di cư bằng đường bộ hoặc ghe
thuyền, phương tiện riêng. (10)
Sau khi bức màn sắt đã buông xuống , nhiều người đã dùng thuyền vượt
tuyến vào Nam bằng đường biển, tổng cộng có hơn một triệu người rời bỏ
quê cha đất tổ lánh nạn Cộng sản vào Nam. Nếu cuộc di cư kéo dài thêm
một năm thì số người tỵ nạn có thể tăng lên vài triệu nhưng trên thực tế
chính phủ Quốc gia Việt Nam không đủ khả năng tiếp đón quá nhiều người
di cư như vậy. Theo sử liệu phía CS, có khoảng 140,000 người tập kết ra
Bắc hầu hết là cán bộ, kháng chiến và gia đình. Họ băng rừng Trường Sơn
hoặc đi tầu Ba Lan, Nga, Pháp. Phủ tổng Ủy di cư Quốc gia VN cho biết có
4,358 người di cư vào đổi ý xin về Bắc.
Nhận xét và kết luận
Trước hết tôi xin nói về Tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Như trên
Hiệp định Genève 1954 gồm 6 chương, 47 điều chủ yếu nói về đình chiến,
mang lại hòa bình, không có điều nào nói về cuộc Tổng tuyển cử nhưng nó
được nhắc tới tại điều 7, trong Bản tuyên bố cuối cùng ngày 21-7. Bản
tuyên bố này chỉ là nói miệng với nhau (oral statements) và không có chữ
ký (unsigned document) của bất cứ phái đoàn nào, nó không giá trị về
mặt pháp lý. Trên thực tế cuộc tổng tuyển cử tại VN 1956 không được các
cường quốc quan tâm kể cả Nga, Trung Cộng, người ta chỉ muốn một hiệp
định chấm dứt chiến tranh.
Như đã nói trên, tại Hội nghị, Việt Minh đề nghị Tổng tuyển cử sau 6
tháng vì nghĩ là họ sẽ thắng, Anh Mỹ và Molotov thỏa thuận 2 năm. Phía
Việt Minh (VN Dân Chủ Cộng Hòa) mới đầu tưởng người dân sẻ ủng hộ họ
nhưng ngay khi Hiệp định có hiệu lực thì hàng triệu người ùn ùn bỏ miền
Bắc vào Nam theo Pháp và Chính phủ Quốc gia. Cuộc di cư vĩ đại y như một
cái tát vào mặt Bác và Đảng khiến họ không hy vọng vào tổng tuyển cử tự
do có quốc tế giám sát. Theo tài liệu Quân sử của Bộ Trung Hoa Quân Mưu
thì sự thất bại của Cải cách ruộng đất đã khiến cho CSVN không thể thực
hiện Tổng tuyển cử được, cái hy vọng thống nhất bằng lòng dân qua bầu
cử của CSVN sụp đổ nên họ quay lưng với Hiệp định để gây chiến tại miền
nam (11)
Việt Minh mới đầu tràn trề hy vọng, ai dè người dân bỏ chạy vào Nam
hàng hàng lớp lớp, cuộc bỏ phiếu bằng chân vĩ đại cho thấy họ thất nhân
tâm, chẳng có tí chính nghĩa nào. Miền Bắc đổ lỗi cho chính phủ Ngô Đình
Diệm không thực hiện tổng tuyển cử, thi hành Hiệp định Genève nhưng
thực ra họ thừa biết sẽ thất bại nếu bầu cử tự do có Liên Hiệp Quốc giám
sát. Người dân miền Bắc sau hai năm nếm mùi đấu tố, đói cơm rách áo đã
hoàn toàn tuyệt vọng ở Bác và Đảng không thể bầu phiếu cho họ. Năm 1956
miền Bắc còn bận rộn với chiến dịch đấu tố, chôn sống địa chủ theo lệnh
Nga, Trung Cộng. Năm 1957 Thủ tướng Phạm văn Đồng gửi thư cho Tổng thống
Diệm xin hiệp thương thống nhất nhưng bị từ chối.
Sở dĩ chính phủ Ngô Đình Diệm không thực hiện bầu cử thống nhất vì
Chính phủ Quốc gia VN đã không ký kết vào bất cứ văn kiện nào của Hiệp
định.
-Bản tuyên bố cuối cùng tự nó không có giá trị pháp lý, chỉ là lời
nói miệng của các phái đoàn, “lời nói theo gió bay đi tất cả” (12) nó
chỉ là một điều khoản mơ hồ.
-Bầu cử thống nhất như thế nào? theo chính thể nào? trong khi miền
Bắc theo CS, miền nam không CS, vậy nếu miền Bắc thắng cử thì mien Nam
sẽ phải theo CS, hoặc ngược lại mien Nam thắng, miềm Bắc sẽ từ bỏ CS?
thật là chuyện không tưởng.
-Năm 1956 các cường quốc Anh, Mỹ, Nga, Trung Cộng không lên tiếng về
Tổng tuyển cử, họ muốn hai bên cứ ở yên như thế. Một số người khuynh tả
hải ngoại chỉ trích chính phủ Diệm đã không thi hành Hiệp định Genève.
Vấn đề ở đây không phải là để bênh vực hay chê trách ông Diệm mà nằm ở
chỗ chính Hà Nội không muốn vậy vì họ thừa biết sẽ thảm bại trong một
cuộc bầu cử tự do, nay người ta đã biết rõ cái tẩy của họ. Trước khi rút
quân tập kết ra Bắc năm 1954, họ đã để lại nhiều cán binh nằm vùng
chuẩn bị cho cuộc nổi loạn sau này và 20 năm sau, năm 1973 khi Hiệp định
Paris vừa ký kết xong, CSBV đã vội mở xa lộ Đông Trường Sơn chuyển vũ
khí đạn dược vào Nam để chuẩn bị xâm lăng ồ ạt. Trong cả hai trương hợp
họ đều không muốn bầu cử và không thể bầu cử mà chỉ chiếm được miền nam
bằng con đường vũ lực.
Năm 1956 Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tháu cáy chính phủ Ngô Đình Diệm
khi họ lên tiếng đề nghị bầu cử thống nhất mà chính họ đã biết là sẽ
thảm bại để đổ lỗi cho miền nam VN và có cớ dùng vũ lực xâm lăng. Chính
phủ Ngô Đình Diệm không tin tưởng sẽ có cuộc bầu cử tự do vì miền Bắc sẽ
dùng biện pháp hăm dọa người dân bỏ phiếu cho CS, họ chỉ có thể thắng
cử được nhờ họng súng. Sự thực như chúng ta đã thấy, chính VM là kẻ đã
chia đôi đất nước, họ đã chủ trương chia cắt đất nước ngay từ đầu.
Tại sao phải thống nhất? tại sao mỗi bên không tự lo xây dựng cho đất
nước mình giầu đẹp mà phải bắt ép những người khác theo mình? Trên thế
giới có ba nước bị phân chia: Triều tiên, Việt Nam và Đức quốc. Nước Đức
thống nhất năm 1990 nhưng hơn mười năm sau trên thực tế vẫn là hai
nước, người Tây Đức chê Đông Đức lười biếng, hủ lậu, đầy thói hư tật
xấu, Đông Đức thì trách Tây Đức cai trị, khinh rẻ họ…
Ngay sau khi bức màn sắt vừa buông xuống, miền Bắc đất chật dân đông,
thiếu thực phẩm đã phải nhập cảng gạo của Miến điện và xin viện trợ các
nước CS anh em. Họ không còn con đường nào khác là chiếm cho được vựa
lúa miền
Như trên TT Eisenhower nói nếu có Tổng tuyển cử có thể 80% người dân
sẽ bỏ phiếu cho ông Hồ Chí Minh hơn là bỏ cho ông Bảo Đại. Walter
Robertson, Phụ tá Bộ trưởng ngoại giao Mỹ đặc trách Viễn đông sự vụ nói
người VN ghét thực dân Pháp, Mỹ lại giúp vua bù nhìn Bảo Đại (13).
Các nhà chính khách và sử gia Tây phương không biết rõ thực trạng xã
hội, chính trị VN hồi ấy nên nhiều người nhận định sai lạc. Họ không
biết rang ngay từ 1950 khi người Pháp lập chính phủ Bảo Đại thì người
dân tại hậu phương bỏ Bác Đảng ùn ùn kéo về thành phố. Họ không biết
rằng khi Việt Minh về tiếp thu các thành phố lớn miền Bắc thì người dân
cũng lũ lượt kéo nhau theo thực dân vào Nam, chẳng thà sống với thực dân
còn hơn nền độc lập của CS. Họ không biết rằng khi Hồng Kông được Anh
trao trả cho Trung Cộng năm 1997 thì nhiều người đã nhẩy lầu tự tử để
phản đối, người ta muốn sống với thực dân Anh hơn là độc lập. Vấn đề đặt
ra là các nhà chính khách, sử gia Tây phương không biết hoặc giả vờ
không biết? tôi nghĩ có thể cả hai trường hợp đều đúng.
Hiệp định Genève là kết quả của cuộc chiến tám năm khói lửa đẫm máu
mệt mỏi, hai bên đều muốn đình chiến. Người Pháp tìm hòa bình để rút
khỏi Đông Dương, còn Việt Minh tạm nghỉ một thời gian dưỡng sức để tiếp
tục chiếm nốt phần đất còn lại.
Người Pháp cho rằng vì yếu thế trên chiến trường đúng ra phải chia
cắt ở vĩ tuyến thứ 13 chứ không phải vĩ tuyến 17 và như thế họ đã được
lời. Phía Việt Minh qua lời Phạm Văn Đồng cho thấy họ bị Nga, Trung Cộng
ép phải nhận chia đôi tại vĩ tuyến 17 vì sợ Mỹ vào can thiệp
Đối với Mỹ thì dù chia tại vĩ tuyến 13 hay 17 cũng là thất bại, là
nhường đất cho CS, họ không muốn có Hiệp định Genève mà chỉ muốn tiếp
tục cuộc chiến ngăn chận CS bành trướng. Tuy nhiên người Mỹ đã mâu thuẫn
với chính họ, mặc dù lo sợ cuộc chiến tầm ăn dâu của địch nhưng lại sợ
tốn tiền.Thượng nghị sĩ Kennedy năm 1954 không ủng hộ cuộc chiến Đông
Dương mà ông cho là vô cùng tốn kém, nước Mỹ chỉ đổ tiền của một cách vô
ích vào rừng núi miền bắc VN, quan điểm của ông đã được đa số Thượng
viện ủng hộ(14).
Chính vì Mỹ không viện trợ đầy đủ cho Pháp bằng Trung Cộng cho Việt Minh đã đưa tới thất thủ Điện Biên Phủ và Hiệp định Genève.
Tư lệnh Đông Dương 1953-1954 nói chúng ta có thể ra đi nhường lại
phần đất cho những người mà họ có nhiều quyền lợi tại tại Đông nam Á hơn
chúng ta (15). Nhưng khi nói về đình chiến, l’Armistice ông ta có phần
mâu thuẫn “Chính tại Genève chứ không phải Điện Biên Phủ là ngày đánh
dấu nước Pháp hạ mình. Trách nhiệm ở các nhà chính trị gia chứ không
phải ở quân đội”
Sự thực không phải vậy, người dân Pháp đã quá ghê sợ cuộc chiến đẫm
máu tại Đông dương và mong mỏi khao khát hòa bình. Dù sao xương máu của
gần 80 ngàn người linh Liên Hiệp Pháp và QGVN đã giữ được một nửa nước
Việt Nam tự do. Người Pháp bỏ Đông Dương nhưng vẫn có chút trách nhiệm
và lương tâm với người ở lại, với chính phủ Quốc gia VN. Họ đã dàn xếp
cho quân dân Quốc gia vào Nam yên ổn rồi mới rút, không bỏ chạy trong
hỗn loạn như 20 năm sau.
Trở lại cuộc di cư vĩ đại, những người lìa bỏ quê cha đất tổ vào miền
nam không phải vì bị Pháp-Mỹ cưỡng ép tuyên truyền như phía CS rêu rao,
cũng không phải vì đấu tố, cải cách ruộng đất vì hồi đó chưa có đấu tố,
mà vì người ta không mê nổi cái chính sách “bần cùng hóa nhân dân” ghê
tởm của Bác và Đảng. Những người đã sống trong vùng Quốc gia không thể
sống nổi dưới chế độ bần hàn đói khổ, tàn ác của CS. Người dân đã có
kinh nghiệm Việt Minh, họ chỉ biết một cách đơn giản Việt Minh đồng
nghĩa với hà khắc, đói khổ, rách rưới, thiếu cơm ăn áo mặc và tâm lý
chung con người không ai muốn sống trong cảnh bần hàn đói khổ.
Sau ngày tiếp thu, Việt Minh vội thu vét thóc gạo của nhân dân bằng
chính sách sưu cao thuế nặng mà họ gọi là thuế nông. Trong lịch sử nước
nhà chưa bao giờ người dân bị bóc lột xương tủy đến thế. Cán bộ giải
thích đó là để đền ơn Trung Quốc vì họ đã giúp đỡ chúng ta giành độc
lập, bởi thế tại sân ga Hải phòng, những người di cư đổ về đây đều đã
đọc thấy những biển ngữ
“Đường tầu hỏa Mục Nam Quan
Vơ vét thóc gạo đem sang cúng Tầu”
Vơ vét thóc gạo đem sang cúng Tầu”
Việt Minh hối hả làm đường xe lửa, vơ vét thóc gạo nhân dân chở sang Trung Cộng.
Lạ thay cuộc di cư vĩ đại hàng triệu người lại không được Tây phương
nói tới, không thấy các nhà sử gia hay chính khách nào đề cập, nhắc nhở.
Họ không biết hay giả vờ không biết. Khoảng một tháng sau ngày
30-4-1975, Trường Chinh tuyên bố khẳng định trên đài phát thanh: “Sau
hai chục năm xây dựng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã đem lại nhiều hạnh
phúc cho nhân dân, nhà nhà đều có cơm ăn áo mặc, trẻ em đều được cắp
sách đến trường…đó là điều mà trong lịch sử nước nhà từ xưa tới nay chưa
có ai thực hiện được…” Đáng lý ra ông ta phải nói “Chúng ta đã mang lại
cho nhân dân một cuộc sống đói khổ nhất trong lịch sử nước nhà từ xưa
tới nay….”
Vào dịp tháng 4-1985, đài VOA nói: “Sau mười năm giaỉ phóng miền nam
VN, đảng CS đã mang lại cho người dân VN cái nghèo vào bậc nhất trên thế
giới…”
Tới nay cuộc di cư 1954 đã được 60 năm qua nhưng người dân vẫn tiếp
tục di cư ra nước ngoài bằng nhiều đường, nhiều cách. Tại miền Bắc nhiều
người đã âm thầm trốn qua châu Âu tìm một cuộc sống no ấm hơn dù gian
khổ khiến nhiều người phải bỏ mạng. Tại mien Nam những cô gái lấy chồng
Đài Loan, Đại Hàn để được thoát ly ra ngoại quốc kiếm tiền gửi về cho
cha mẹ, họ thường nói: “Cứ ra khỏi Việt Nam là thiên đường….”
© Trọng Đạt
© Đàn Chim Việt
© Đàn Chim Việt
Chú Thích
(1) Bernard Fall, Hell In A Very Small Place, The Siege of Dien Bien Phu trang 301
(2) Nguyển Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 930-943
(3) Wikipedia, Hiệp định Genève 1954
(4) Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên, Quyển Thượng 1939-1954, trang 224,225
(5) Kết Thúc Một Cuộc Chiến, Đông Dương Năm 1954, End of a War, Indochina. (nguyên bản tiếng Phap La Fin d’une La Fin d’une Guerre). Chương 23 từ trang 301-313.
(6) Sách kể trên, trang 307
(7) Tro Tàn Cuả Chiến Tranh, Sự Suy Tàn Của Một Đế Quốc Và Sự Thành Hình Một Việt Nam Của Mỹ, Embers of War, The Fall of An Empire And The Making of America’s Vietnam, in năm 2012, trang 605-611
(8) Oral statements, sách kể trên, trang 605
(9) Wikipedia, Cuộc Di Cư Việt Nam, 1954
(10) Wikipedia, Cuộc Di Cư Việt Nam,1954
(11) Diễn Đàn Việt Thức, Vai Trò CS-Trung Quốc trong Chiến Tranh Việt Nam , Nhất Thanh lược dịch, Chinese Military Advisory Group-CMAG
(12) La parole s’envole toute
(13) Embers of War, trang 495
(14) Sách kể trên, trang 478
(15) Henri Navarre, Agonie de l’Indochine, trang 68
(16) Sách kể trên, Chương IX, l’Armistice , trang 315
(2) Nguyển Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 930-943
(3) Wikipedia, Hiệp định Genève 1954
(4) Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên, Quyển Thượng 1939-1954, trang 224,225
(5) Kết Thúc Một Cuộc Chiến, Đông Dương Năm 1954, End of a War, Indochina. (nguyên bản tiếng Phap La Fin d’une La Fin d’une Guerre). Chương 23 từ trang 301-313.
(6) Sách kể trên, trang 307
(7) Tro Tàn Cuả Chiến Tranh, Sự Suy Tàn Của Một Đế Quốc Và Sự Thành Hình Một Việt Nam Của Mỹ, Embers of War, The Fall of An Empire And The Making of America’s Vietnam, in năm 2012, trang 605-611
(8) Oral statements, sách kể trên, trang 605
(9) Wikipedia, Cuộc Di Cư Việt Nam, 1954
(10) Wikipedia, Cuộc Di Cư Việt Nam,1954
(11) Diễn Đàn Việt Thức, Vai Trò CS-Trung Quốc trong Chiến Tranh Việt Nam , Nhất Thanh lược dịch, Chinese Military Advisory Group-CMAG
(12) La parole s’envole toute
(13) Embers of War, trang 495
(14) Sách kể trên, trang 478
(15) Henri Navarre, Agonie de l’Indochine, trang 68
(16) Sách kể trên, Chương IX, l’Armistice , trang 315