Thứ Năm, 31 tháng 7, 2014

Nợ công của Việt Nam

Nguyễn Hà
Trong khi nỗi lo về nợ công ngày một chất chồng thì kiểm toán chuyên đề về nợ công vẫn mới chỉ nằm trong dự kiến.
Kiểm toán Nhà nước, tại cuộc họp báo cuối tuần qua đã đưa ra một số thông tin không mới nhưng vẫn rất thời sự về nợ công.
Cơ quan này cho rằng Bộ Tài chính đã tổng hợp thừa/thiếu một số khoản vay/nợ. Đây cũng là vấn đề được Tổng kiểm toán Nhà nước Nguyễn Hữu Vạn báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội từ phiên họp tháng 4 năm nay.
Kết quả kiểm toán cho thấy, nợ công đến 31/12/2012 giảm 1.632,6 tỷ đồng so với báo cáo của Bộ Tài chính.
Dù không quá lớn, lại thể hiện sự giảm đi nhưng con số này dường như đã làm cho mức độ tin cậy về số liệu của nợ công vốn đã mong manh lại càng thêm chênh vênh.
Nhất là khi chính đại diện Kiểm toán Nhà nước nói ở cuộc họp báo rằng kiểm toán nợ công là một vấn đề còn rất mới và mới chỉ được kiểm toán lồng ghép trong các cuộc kiểm toán ngân sách nhà nước dẫn đến kết quả còn hạn chế.

Và một quy trình để kiểm toán riêng biệt về nợ công mới đang trong quá trình nghiên cứu xây dựng.
Điều này, đương nhiên khó có thể là tin vui, khi mà dự đoán nợ công sẽ là tâm điểm của nhiều cuộc tranh luận về an ninh tài chính quốc gia trong năm 2014 của một vị chuyên gia vào ngày cuối cùng của năm 2013 trên VnEconomy đã trở thành hiện thực.
Trung tuần tháng 7 vừa qua, tụ họp trong một hội thảo về nợ công do Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội tổ chức, các chuyên gia từ trẻ tuổi đến cao niên lại đưa thêm nhiều cảnh báo về nguy cơ của nợ công Việt Nam.
Vẫn nằm trong ngưỡng an toàn là khẳng định đã quá quen thuộc, không chỉ từ Bộ Tài chính mà từ Chính phủ về nợ công. Cơ sở được xem là khá vững chắc cho khẳng định này là tổng số dư nợ công đến ngày 31/12/2013 ở mức 1.913 nghìn tỷ đồng, bằng 53,4% GDP, dư nợ Chính phủ ở mức 1.488 tỷ nghìn đồng, bằng 41,5% GDP. Mà giới hạn cho phép là nợ công dưới 65% GDP, nợ Chính phủ dưới 55% GDP.
Tuy nhiên, theo phân tích của nhiều chuyên gia, các con số nói trên chưa bao gồm nợ của doanh nghiệp nhà nước, nợ chi phí quản lý và cấp bù lãi suất đối với Ngân hàng Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam, nợ xây dựng cơ bản, nợ quỹ bảo hiểm xã hội, nợ chi ứng trước của ngân sách Trung ương cho các dự án đầu tư chưa bố trí được nguồn.
Mặt khác, theo TS.Vũ Đình Ánh (Viện Kinh tế - Tài chính, Học viện Tài chính), số tuyệt đối về nợ công, nợ nước ngoài và nợ chính phủ là bao nhiêu, tốc độ tăng hàng năm như thế nào cũng không được công bố đầy đủ.
Ông Vũ Đình Ánh dẫn con số tuyệt đối về nợ công của Việt Nam từ đồng hồ nợ công thế giới (The global debt clock - GDC) cho biết đến cuối tháng 3/2014, mỗi người Việt Nam hiện đang gánh khoản nợ trung bình 887,51 USD (gần 20 triệu đồng).
Cũng theo GDC, quy mô nợ công của Việt Nam tăng liên tục: năm 2012 tăng 8,6%, đến 2013 tăng 12,6% và dự kiến 2014 tăng 11,2% nhưng tỷ lệ nợ công lại giảm từ 50,6% GDP năm 2012 xuống 49,3% GDP năm 2013 và dự kiến còn 48% GDP năm 2014 do tốc độc tăng GDP danh nghĩa cao hơn so với tốc độ tăng quy mô nợ.
Chỉ tính từ tháng 1/2013 đến tháng 3/2014, theo GDC, nợ công của Việt Nam đã tăng thêm 9,887 tỷ USD, trung bình tăng gần 700 triệu USD/tháng và tăng thêm gần 100 USD/người.
TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam cũng đưa ra hai con số rất khác nhau về nợ công của Việt Nam.
Đó là, nợ công Việt Nam theo định nghĩa của Luật Quản lý nợ công (gồm nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương) thì chiếm 54,4% GDP. Còn nếu theo định nghĩa quốc tế thì nợ công của Việt Nam đã lên đến 106% GDP.
Nêu tính toán của các chuyên gia, TS. Lê Đăng Doanh cho biết nếu bổ sung nợ của khu vực doanh nghiệp nhà nước thì nợ công sẽ lên đến 100 -105% GDP.
Luật gia Vũ Xuân Tiền, trong bản tham luận về nợ công mới đây trích nhận định của TS. Đỗ Thiên Anh Tuấn, giảng viên Chương trình Giảng dạy kinh tế Fulbright: “Nếu tính cả nợ tiềm ẩn của doanh nghiệp nhà nước thì tỷ lệ nợ công của Việt Nam có thể trên 100% GDP, vượt xa ngưỡng nợ công 65% GDP được đặt ra trong chiến lược phát triển tài chính đến đến năm 2020”.
Như thế, tự thân sự chênh vênh của các con số về nợ công đã chứa đựng đầy những “đáng ngờ”, nhưng theo nhiều chuyên gia thì sự “đáng sợ”của nợ công lại không nằm ở các con số.
-----------------------------------------------
Bài 2: Nguy cơ nợ công Việt Nam thực sự nằm ở đâu?
Như VnEconomy đã đề cập ở bài viết trước, mức độ chênh vênh của con số nợ công Việt Nam đang là thách thức ngay cả với cơ quan kiểm toán.
Tổng kiểm toán Nhà nước Nguyễn Hữu Vạn, trong phiên họp tháng 4/2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã từng nêu thực tế: “Do đặc điểm tổ chức quản lý và công tác kế toán, lập báo cáo thông tin về nợ công phân tán, Kiểm toán Nhà nước không đủ cơ sở xác nhận số liệu nợ công năm 2012”.
Song, nguy cơ thực sự của nợ công Việt Nam không nằm ở các con số, theo TS. Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam.
Tại tham luận ở hội thảo về nợ công vừa diễn ra trung tuần tháng 7 vừa qua, Viện trưởng Thiên đã chỉ ra ba điểm được coi là nguy cơ thực tiễn của nợ công.
Thứ nhất là tốc độ tăng nợ vay cao, hiện đã đến mức vay để trả nợ chứ không phải vay để sản xuất rồi bán đi lấy tiền trả nợ. Vay để trực tiếp trả nợ luôn, ông Thiên nhấn mạnh.
Cơ cấu nợ, theo ông Thiên là nguy cơ thứ hai. Bởi nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn. Trái phiếu Chính phủ kỳ hạn rất ngắn, kỳ hạn ngắn thì áp lực trả nợ tăng nhanh. Tổng số nợ của Việt Nam không quá lớn nhưng tỷ trọng nợ ngắn hạn quá cao nên áp lực trả nợ gay gắt và ngày càng tăng cao, vị chuyên gia này phân tích.
Điểm thứ ba chứa đựng nguy cơ, theo Viện trưởng Thiên chính là năng lực trả nợ. Những con số liên quan theo ông Thiên là đã thực sự đáng báo động, khi nghĩa vụ trả nợ năm 2014 đã vượt qua vạch đỏ (25% tổng thu ngân sách).
Sang năm con số này chắc lên 30% hoặc hơn, đây thực sự là một nguy cơ báo động mà chúng ta không thể coi thường”, ông Thiên cảnh báo.
Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, TS. Trần Du Lịch cũng nhấn mạnh rằng khủng hoảng nợ công hay không tùy thuộc ở tổng số nợ phải trả hàng năm so với tổng thu ngân sách nhà nước.
Năm 2013, chỉ số này của Việt Nam là 22,3% và chắc chắc chắn sẽ tăng nhanh trong các năm tới, khi vượt trên mức 25% thì bắt đầu giai đoạn báo động và vượt 30% là mất an toàn, ông Lịch góp thêm lời cảnh báo.
Khả năng huy động và trả nợ khó khăn cũng là điều từng được Chính phủ thừa nhận tại một bản báo cáo phát hành vào tháng Tư năm nay.
Và, dưới phân tích của không ít chuyên gia thì các khó khăn đã tiệm cận mức rủi ro.
Theo TS. Trần Du Lịch, tình trạng vay để đảo nợ đang ngày càng lớn. Năm 2014 nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ là 208.883 tỷ đồng, thì phần cân đối ngân sách chỉ có 118.750 tỷ đồng, phải vay để trả nợ khoảng 90.000 tỷ đồng. Con số này sẽ tăng dần trong các năm sau và đây chính là rủi ro đáng lo ngại.
Vay để đảo nợ cũng là lo lắng của nhiều vị đại biểu Quốc hội đương nhiệm khác khi chất vấn Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng ở kỳ họp giữa năm vừa qua.
Tại đó, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã nhấn mạnh “vay để trả nợ là không an toàn” và Quốc hội đồng ý nâng mức bội chi là để đầu tư chứ không phải để trả nợ.
Trở lại câu hỏi về nguy cơ thực sự của nợ công, tại hội thảo khoa học "Phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong điều hành kinh tế vĩ mô giai đoạn 2014-2015" do Học viện Chính sách và Phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tổ chức vào tháng 12/2013, một phần câu trả lời cũng đã được đưa ra.
Khi đó, Giám đốc Học viện, TS. Đào Hùng và TS. Trịnh Quang Anh đã đặc biệt lưu ý với áp lực phát hành trái phiếu chính phủ gộp, cả để đảo nợ đến hạn (tổng hai năm 2014-15 là khoảng 320 nghìn tỉ đồng, dự đoán sẽ phát hành tập trung trong năm 2014), nguy cơ nợ công chuyển sang trạng thái mất an toàn là có khả năng, kéo theo đó là nguy cơ bất ổn hệ thống ngân hàng.
Còn TS. Lê Xuân Nghĩa cảnh báo về vấn đề mà theo ông là khá nghiêm trọng, cần phải tính toán kỹ, đó là nghĩa vụ trả nợ công của ngân sách dự kiến đến 2016 sẽ vượt 30%, là vượt ngưỡng an toàn.
TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam cho rằng, nếu tính đủ cả nợ doanh nghiệp nhà nước thì mức nợ công hiện nay đã vượt quá trần nguy hiểm rất nhiều.
Những khoản nợ xấu của khu vực doanh nghiệp nhà nước mà rất có thể sẽ phải dùng ngân sách nhà nước để trả mới là mầm mống đe dọa tính bền vững của nợ công Việt Nam cũng là nhận định của hai chuyên gia trẻ Đinh Tuấn Minh và Phạm Thế Anh.
---------------------------------------------------------
Bài 3: Nợ công và phần chìm của “tảng băng” doanh nghiệp nhà nước
“Khủng khiếp”, đó là chữ được TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam, dùng để nói về độ lớn mức vay nợ của các doanh nghiệp nhà nước, có liên quan mật thiết đến nợ công.
Với phạm vi định nghĩa trong Luật Quản lý nợ công của Việt Nam hiện nay, ông Dũng cho rằng hầu hết nợ của doanh nghiệp nhà nước không được đưa vào trong nợ công quốc gia. Vì, chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ (4,2 - 6,9%) dư nợ của doanh nghiệp nhà nước là được Chính phủ bảo lãnh.
Đó là phần vay vốn nước ngoài. Phần chìm của tảng băng doanh nghiệp nhà nước vay nợ trong nước theo hình thức tự vay tự trả mới lớn khủng khiếp”, tác giả Trịnh Tiến Dũng nhấn mạnh tại tham luận ở hội thảo về nợ công mới diễn ra hồi trung tuần tháng 7/2014.
Khá nhiều con số được ông Dũng sử dụng để minh chứng cho nhận định này. Như, nếu tính cả 86.000 tỷ đồng của Vinashin thì ngay từ cuối năm 2009 nợ của doanh nghiệp nhà nước đã lên tới 54,2% GDP của năm này. Riêng Vinashin có dư nợ đến hạn phải trả khoảng trên 14.000 tỷ đồng nhưng không thể tự cân đối được dòng tiền…
Tuy nhiên, Nhà nước tiếp tục các hình thức hỗ trợ như chuyển nợ (chuyển nợ của Vinashin sang Vinalines và Petro Vietnam), giãn nợ (bảo lãnh của Nhà nước trước các ngân hàng), bổ sung vốn, khoanh nợ... nói cho cùng đều dựa vào ngân sách Nhà nước, làm tăng thâm hụt ngân sách.
Và hậu quả là Nhà nước sẽ phải phát hành trái phiếu Chính phủ, để bù đắp thiếu hụt khiến cho nợ công của quốc gia tăng lên, ông Dũng khái quát.
Vẫn trong mối liên hệ với nợ công, hơn một lần tại các hội thảo lớn về tài chính, chuyên gia Phạm Thế Anh (Viện Chiến lược chính sách khoa học và công nghệ) cho rằng rủi ro tiềm tàng lớn nhất đối với nợ công của Việt Nam có lẽ không phải ở những khoản nợ được ghi nhận trên sổ sách. Những khoản nợ xấu của khu vực doanh nghiệp Nhà nước mà có thể sẽ phải dùng ngân sách để trả mới là mầm mống đe dọa tính bền vững của nợ công. Ví dụ như khoản nợ quốc tế 600 triệu USD của Vinashin hay hàng chục triệu USD của HUD...
Còn ở bản tham luận tại hội thảo mới được Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội tổ chức giữa tháng 7 vừa qua, các tác giả Phạm Thế Anh và Đinh Tuấn Minh đã dẫn con số từ báo cáo cuối năm 2013 của Chính phủ cho thấy tổng nợ của các doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ tính đến cuối năm 2012 là gần 1.550 nghìn tỷ đồng, tương đương khoảng 52,5% GDP.
Nếu loại trừ phần cụ thể đã được Chính phủ bảo lãnh (5,2% GDP trong nợ công nước ngoài và 6,5% GDP trong nợ công trong nước) thì vẫn còn tới khoảng 40,9% GDP nợ của doanh nghiệp nhà nước không được Chính phủ bảo lãnh, tham luận nêu rõ.
Do vậy, nếu cộng cả con số nợ của doanh nghiệp nhà nước không được Chính phủ bảo lãnh này cùng với nợ đọng trong xây dựng cơ bản vào con số công bố chính thức thì nợ công Việt Nam hiện nay sẽ lên tới xấp xỉ 98,2% GDP, vượt xa so với ngưỡng an toàn là 65% GDP được khuyến cáo phổ biến bởi các tổ chức quốc tế”, các tác giả cảnh báo.
Vẫn theo các chuyên gia Thế Anh và Tuấn Minh, rủi ro từ nợ của các doanh nghiệp nhà nước đối với nợ công quốc gia không hẳn chỉ nằm ở kênh vay nợ được Chính phủ bảo lãnh như đã nói trên.
Các khoản nợ từ nước ngoài không được Chính phủ bảo lãnh, nợ từ ngân hàng phát triển, nợ từ các ngân hàng thương mại và nợ chéo lẫn nhau của các doanh nghiệp nhà nước mới là mầm mống đe dọa an toàn nợ công quốc gia khi một số doanh nghiệp nhà nước lớn rơi vào thua lỗ nhưng lại không thể để chúng phá sản, tác giả Tuấn Minh và Thế Anh phân tích thêm.
Các tác giả tham luận cũng nhấn mạnh rằng, nếu như không muốn nợ của khu vực doanh nghiệp nhà nước trở thành mối đe dọa thực sự đối với an toàn nợ công quốc gia trong tương lai thì tiến trình cổ phần hóa và cải cách khu vực này cần phải được tiến hành một cách thực chất thay vì hình thức.
Cũng băn khoăn về mối quan hệ giữa ngân sách nhà nước và nợ doanh nghiệp nhà nước, TS. Lê Đăng Doanh nêu tính toán của các chuyên gia nếu bổ sung nợ của khu vực này thì nợ công sẽ lên đến 100 -105% GDP.
Ông Doanh cho rằng, cần thiết phải xếp loại nợ doanh nghiệp nhà nước và bổ sung một phần số nợ đó vào nợ công. Bởi, Bộ Tài chính nhiều lần tuyên bố nợ doanh nghiệp nhà nước tự vay tự trả song ngân sách nhà nước đã phải trả cho nhiều dự án đầu tư của doanh nghiệp nhà nước.
Bởi vậy, giám sát toàn diện về nợ công, đặc biệt là ngăn chặn những tác động tiêu cực từ khu vực doanh nghiệp nhà nước đến nợ công quốc gia, theo nhiều ý kiến đã trở nên rất cấp thiết.
Tác giả: Nguyên Hà
----------------------------------------------------------------------------------------------------
Đọc thêm:
“Tôi e rằng với chính sách tiếp tục thế này thì đến tầm 2015 một lần nữa trần nợ công sẽ tăng vọt, rơi vào khoảng 80% GDP”, chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh bày tỏ lo ngại tại hội thảo khoa học "Phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong điều hành kinh tế vĩ mô giai đoạn 2014-2015" do Học viện Chính sách và Phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tổ chức sáng 19/12.
Tại đây, dưới phân tích của các vị chuyên gia, trong bối cảnh năm 2014 bội chi ngân sách nhà nước được chấp nhận nới đến 5,3% GDP và trái phiếu Chính phủ được phát hành thêm tới 170 nghìn tỷ đồng cho ba năm tới, nỗi lo về nợ công vốn đã luôn canh cánh lại càng trở nên nhạy cảm hơn lúc nào hết.
Là vị diễn giả đầu tiên đăng đàn, không đi sâu về nợ công, song TS. Trịnh Quang Anh nhấn mạnh rằng câu chuyện nợ công sẽ là tâm điểm của của nhiều cuộc tranh luận về an ninh tài chính quốc gia trong năm 2014 khi con số thực của nợ công là bao nhiêu, đâu là ngưỡng an toàn vẫn là câu hỏi ngỏ.
Và vì thế, theo ông, nợ công liệu có đang mất an toàn đang là câu hỏi rất chính đáng.
Giám đốc Học viện, TS. Đào Hùng và TS. Trịnh Quang Anh đặc biệt lưu ý với áp lực phát hành trái phiếu chính phủ gộp, cả để đảo nợ đến hạn (tổng hai năm 2014-15 là khoảng 320 nghìn tỉ đồng, dự đoán sẽ phát hành tập trung trong năm 2014), nguy cơ nợ công chuyển sang trạng thái mất an toàn là có khả năng, kéo theo đó là nguy cơ bất ổn hệ thống ngân hàng.
Quyền Viện trưởng Viện Chính sách công và quản lý (Đại học Kinh tế Quốc dân), TS. Phạm Thế Anh khi trình bày bản tham luận về nợ công tại Việt Nam, cũng đã đưa ra nhiều phân tích cho thấy sự mong manh của "giới hạn an toàn" luôn được khẳng định trong nhiều báo cáo chính thức.
Theo ông Thế Anh, nợ công của Việt Nam hiện nay đang được hình thành từ ba nguồn chính: thâm hụt tài khóa, nợ đọng xây dựng cơ bản của chính quyền địa phương và nợ của khối doanh nghiệp nhà nước, mà Chính phủ có nguy cơ phải đứng ra trả nợ thay.
Và, thâm hụt ngân sách kéo dài, nợ của chính quyền địa phương có phần bị buông lỏng và đặc biệt là sự thua lỗ của nhiều doanh nghiệp nhà nước trong những năm qua, ngoài việc gây ra những nguy cơ về một cuộc khủng hoảng nợ, trong dài hạn nó còn có thể tác động tiêu cực đến sự ổn định kinh tế vĩ mô và thịnh vượng của quốc gia, ông Thế Anh lo ngại.
Cũng theo vị chuyên gia này, với tỷ lệ nợ công/GDP tính đến cuối năm 2012 vào khoảng 55,7% GDP (chưa kể các khoản nợ chưa được hạch toán của Chính quyền địa phương và nợ có thể phải trả thay cho các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ) thì định hướng mở rộng tài khóa như đã nói trên rất có thể sẽ khiến mức trần nợ công GDP quy định bởi Quốc hội vào năm 2015 nhanh chóng bị phá vỡ.
Ông Thế Anh phân tích, rủi ro tiềm tàng lớn nhất đối với nợ công của Việt Nam có lẽ không phải ở những khoản nợ được ghi nhận trên sổ sách. Những khoản nợ xấu của khu vực doanh nghiệp nhà nước mà rất có thể sẽ phải dùng ngân sách nhà nước để trả mới là mầm mống đe dọa tính bền vững của nợ công Việt Nam. Ví dụ như khoản nợ quốc tế 600 triệu USD của Vinashin hay hàng chục triệu USD của HUD...
Vẫn liên quan đến nợ của các “ông lớn” nhà nước, bản tham luận dẫn con số tại báo cáo mới nhất của Chính phủ cho thấy tổng nợ của các doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ tính đến cuối năm 2012 là gần 1.550 nghìn tỷ đồng, tương đương khoảng 52,5% GDP.
Đáng chú ý là mặc dù không thuộc diện bảo lãnh nhưng Chính phủ vẫn thường phải đứng ra hỗ trợ khi những tập đoàn, tổng công ty này làm ăn thua lỗ, không thể trả nợ đúng hạn hay đứng trước nguy cơ phá sản. Nợ của Vinashin hay của HUD đã nhắc đến ở trên có thể được coi là những ví dụ điển hình.
Nếu loại trừ phần cụ thể đã được Chính phủ bảo lãnh (5,17% GDP trong nợ công nước ngoài và 6,5% GDP trong nợ công trong nước) thì vẫn còn tới khoảng 40,9% GDP nợ của doanh nghiệp nhà nước không được Chính phủ bảo lãnh.
Do vậy, nếu cộng cả số này cùng với nợ đọng trong xây dựng cơ bản vào con số công bố chính thức thì nợ công Việt Nam hiện nay sẽ lên tới xấp xỉ 98,2% GDP, vượt xa so với ngưỡng an toàn là 65% GDP được khuyến cáo phổ biến bởi các tổ chức quốc tế”, tác giả tham luận cảnh báo.
Đầy lo ngại, TS. Vũ Đình Ánh nhấn mạnh rằng trong một vài năm gần đây tốc độ nợ công tăng rất nhanh, gần như vượt qua các giới hạn tưởng là rất “ngon lành” trước đây.
Vị chuyên gia này cũng cho rằng câu chuyện về nợ công hiện tại còn nợ một vấn đề rất lớn, không rõ trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, của Bộ tài chính với tư cách cơ quan quản lý nợ công hay của Ngân hàng nhà nước là cơ quan gần như chuyên đi ký để vay nợ công, đó là vấn đề sử dụng nợ công.
Trả lời câu hỏi về nợ công được sử dụng như thế nào, theo ông Vũ Đình Ánh là đặc biệt quan trọng, bởi hiện quy mô nợ công đã lên đến 100 tỷ USD, là con số không hề nhỏ.
Tham gia bình luận, TS. Lê Xuân Nghĩa nói con số nợ doanh nghiệp nhà nước tại ngân hàng hiện vào khoảng 1,6 triệu tỷ đồng. Ông nhấn mạnh đây là số nợ rất lớn bởi hiện tại tổng dư nợ tín dụng đã tương đương GDP, tức khoảng 3 triệu tỷ đồng.
Vấn đề mà theo ông Nghĩa cũng đã khá nghiêm trọng cần phải tính toán kỹ, đó là nghĩa vụ trả nợ công của ngân sách khi năm 2013 là 24% tổng thu ngân sách và dự kiến đến 2016 sẽ vượt 30%, là vượt ngưỡng an toàn.
Luôn khẳng định nợ công vẫn nằm trong giới hạn an toàn, Chính phủ rất ít khi biểu lộ lo lắng về vấn đề này tại các bản báo cáo trình Quốc hội.
Báo cáo gần đây nhất thì khác.
Hoàn thành ngày 24/4/2014, bản báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh ký vẫn được một số thành viên của Ủy ban Kinh tế Quốc hội - cơ quan thẩm tra báo cáo - cho là quá lạc quan.
Về tổng thể, có thể là như thế. Nhưng ở từng câu chữ đã thấy rõ hơn những lo lắng.
Nợ công tuy vẫn nằm trong giới hạn an toàn, nhưng trên thực tế khả năng huy động và trả nợ rất khó khăn”, phần tồn tại hạn chế tại báo cáo nêu rõ.
Nửa năm trước, tại kỳ họp thứ 6 của Quốc hội, báo cáo của Chính phủ vẫn có một khẳng định quen thuộc: “Nợ chính phủ, nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn an toàn”.
Con số được nêu tại báo cáo khi ấy là, đến cuối năm 2013, dư nợ công ước khoảng 56,2% GDP, dư nợ Chính phủ khoảng 42,6% GDP, dư nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 39,5% GDP.
Thế nhưng, hai chữ an toàn dường như chưa mang lại sự an tâm.
Nợ công có lẽ sẽ là tâm điểm của nhiều cuộc tranh luận về an ninh tài chính quốc gia trong năm 2014, bởi con số thực của nợ công là bao nhiêu, đâu là ngưỡng an toàn vẫn là câu hỏi ngỏ. Nhận định này của một chuyên gia trên VnEconomy vào ngày cuối cùng của năm 2013 dường như đã được khẳng định chắc chắn hơn, sau bốn tháng đầu năm 2014. Vào ngày 28/4, tại Diễn đàn Kinh tế Mùa xuân 204 mà theo nhận xét của TS. Lê Đăng Doanh là “một diễn đàn có chất lượng nhất ở Việt Nam hiện nay về tinh thần khoa học, gắn bó với thực tiễn, trung thực, thẳng thắn và xây dựng”, nguy cơ từ nợ công đã lại được đặt ra.
Cùng với nợ xấu, TS. Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng quan niệm về nợ công chưa thực sự rõ ràng, còn nhiều điểm khác với quốc tế, số liệu về nợ là đang khác nhau, sai số quá lớn và chuẩn mực đo không thống nhất. Mặt khác, quy mô nợ lớn và xu hướng gia tăng là nhanh.
Dường như chúng ta có xu hướng đánh giá thấp nguy cơ của nợ công hơn thực tế”, ông Thiên chỉ ra nguy cơ của nguy cơ về nợ công.
Trở lại ba chữ “rất khó khăn” của Bộ trưởng Vinh tại báo cáo sẽ trình Quốc hội. Để nói rõ hơn cho nhận định này, bản báo cáo cung cấp thêm khá nhiều thông tin. Đó là khối lượng huy động vốn trái phiếu Chính phủ rất lớn, bình quân khoảng trên 400 nghìn tỷ đồng/năm trong ba năm tới, bằng khoảng 8-9% GDP, bao gồm huy động để bù đắp bội chi, đảo nợ và để đầu tư. Trong khi việc huy động trong nước chủ yếu là vay ngắn hạn và trung hạn chiếm tới 80%, vay dài hạn chỉ chiếm 20%, dẫn đến tần suất, mức trả nợ sẽ rất cao.
Mặt khác, việc huy động hoàn toàn phụ thuộc vào các định chế tài chính như ngân hàng thương mại chiếm 86%, các định chế tài chính khác chiếm 12%, có thể sẽ dẫn đến việc dòng tiền của hệ thống ngân hàng chỉ tập trung vào trái phiếu mà thu hẹp đầu tư vào sản xuất kinh doanh, Chính phủ nhìn nhận.
Phân tích tiếp theo được báo cáo nêu là trong 2013, lãi suất thị trường ít chịu tác động của việc phát hành trái phiếu Chính phủ do đầu ra tín dụng cho sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, việc phát hành lượng trái phiếu Chính phủ quy mô lớn sẽ có nhiều tác động tiêu cực đén mặt bằng lãi suất và chi phí vốn vay của doanh nghiệp, cũng như lạm phát trong năm 2014 và các năm tiếp theo.
Bản báo cáo chứa đựng những kiến giải nêu trên đã đến tay các thành viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội vào chiều 29/4, ở phiên họp toàn thể chuẩn bị báo cáo thẩm tra tình hình kinh tế - xã hội trình Quốc hội tại kỳ họp tới.
Nhưng, trước đó một ngày, TS. Trần Du Lịch, Ủy viên Ủy ban Kinh tế, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ Quốc gia đã nhận định “nợ công không phải nhẹ nhàng như ta hiểu, đặc biệt tỷ lệ nợ phải trả so với thu ngân sách”.
Đại biểu Lịch đề nghị Ủy ban Kinh tế kiến nghị Quốc hội tại kỳ họp thứ 7 sẽ khai mạc vào ngày 20/5 tới cần có phiên thảo luận riêng để bàn lại về nợ công.
Không thể cứ nói là an toàn, phải bàn lại xem thực chất nợ công là thế nào, đặc biệt là nợ trung hạn, nếu không khéo khi nợ dài hạn đến hạn trả là không chịu nổi”, ông Lịch nhấn mạnh.
Tác giả: Thảo Nguyên

Lưu trữ

Tự điển



Tự điển Việt Nam
đã được bổ sung những ý nghĩa "chính thức"