“Ở nơi nào người ta đã đốt sách, người ta sẽ kết thúc bằng đốt sinh mạng con người.”
Almansor (1821) – Heinrich Heine
A. Tự do trí tuệ là gì và tại sao nó quan trọng?
Tự do trí tuệ có nghĩa là bất kỳ một cá nhân nào sống trong xã hội
loài người đều có quyền tìm kiếm và tiếp nhận thông tin thuộc mọi quan
điểm mà không hề bị bất cứ một trở ngại nào. Tự do trí tuệ vì vậy bảo
đảm cho con người quyền tự do bộc lộ ý tưởng bằng nhiều cách khác nhau
qua đó có thể làm sáng tỏ mọi khía cạnh của một vấn đề, một nguyên nhân,
hay một trào lưu. Như vậy tự do trí tuệ có quan hệ mật thiết với tự do
ngôn luận và tự do biểu hiện. Thiếu tự do trí tuệ xã hội sẽ dễ dàng bị
một thiểu số nhân danh dư luận, nhân danh nhà cầm quyền, nhân danh các
nhà tài phiệt, hay nhân danh một giai cấp, tầng lớp nào đó trong xã hội
v.v. lừa dối. Của cải vật chất, tinh thần, tài nguyên, lãnh thố của quốc
gia và cả sinh mạng con người dễ bị lợi dụng nhằm đạt mục đích ích kỷ
của một số người hoặc các tập đoàn.
Tự do trí tuệ là một trong những hòn đá tảng xây nên nền móng của một
xã hội dân chủ. Trong một xã hội dân chủ, mỗi người dân là người chủ
của chính mình, là người điều khiển chính bản thân mình, chứ không phải
ai khác. Nhưng để mỗi người dân có thể chịu trách nhiệm về việc đó, mọi
công dân của xã hội phải được nhận đầy đủ thông tin. Tự do trí tuệ như
vậy bao gồm tự do tàng trữ, tiếp nhận và phát tán thông tin.
Đối kháng với tự do trí tuệ là kiểm duyệt.
B. Kiểm duyệt là gì, nó xảy ra như thế nào và ai là người muốn kiểm duyệt?
Kiểm duyệt là sự ngăn cấm, loại bỏ, hay đàn áp những ý tưởng hoặc
thông tin mà một số người thấy không chấp nhận được hoặc cho là nguy
hiểm. Những người này có thể là một số cá nhân, nhóm người, hoặc một số
người nhân danh nhà cầm quyền. Kiểm duyệt bắt đầu khi có một người nói:
“Chớ có cho ai đọc quyển sách đó (hoặc mua số báo đó, hoặc coi bộ phim
hoặc vở kịch đó, hoặc nghe bài hát hoặc bản nhạc đó, hoặc xem bức tranh
đó) vì tôi không đồng ý.” Các nhà kiểm duyệt ép các cơ quan, trường học,
nhà xuất bản, báo chí, tổ chức, công ty, viện nghiên cứu, v.v. loại bỏ
các thông tin mà họ cho là không thích hợp hoặc nguy hiểm, không cho
phép công chúng tiếp xúc với các thông tin đó. Kết quả là không ai có
thể có cơ hội đọc hoặc xem các thông tin này để có thể tự suy nghĩ và
phán xét đúng, sai, hay, dở về chúng. Các nhà kiểm duyệt muốn tự đánh
giá, xếp loại, phân “luồng” thông tin cho tất cả mọi người. Tuy nhiên,
đã là công dân một xã hội dân chủ, pháp quyền, thì bất kỳ người nào cũng
có quyền đọc, nhìn, nghe, và tuyên truyền các ý tưởng không vi phạm
hiến pháp, cho dù nhà kiểm duyệt không muốn chấp nhận những ý tưởng đó
đi chăng nữa.
Kiểm duyệt xảy ra khi các tài liệu bày tỏ ý tưởng như sách, báo,
phim, ảnh, các tác phẩm nghệ thuật, v.v. (gọi chung là “tài liệu”) bị
loại bỏ hoặc cất đi không cho công chúng xem. Một số cá nhân hoặc nhóm
người “điểm mặt chỉ tên” những “tài liệu” mà họ phản đối. Trong một số
trường hợp, các nhà kiểm duyệt cấm các trường học không được sử dụng các
“tài liệu” này, cấm các hiệu sách, hiệu đĩa, hiệu băng video không được
lưu giữ chúng, cấm các nhà xuất bản không được ấn hành chúng, cấm các
galleries, các phòng triển lãm không được trưng bày chúng. Kiểm duyệt
cũng xảy ra khi một số “tài liệu” bị hạn chế phạm vi sử dụng, chỉ được
sử dụng đối với một loại công chúng dựa trên một số tiêu chuẩn về tuổi
tác, hoặc các tiêu chuẩn khác (ví dụ sách báo, phim ảnh dành cho người
lớn, v.v.).
Trong đại đa số trường hợp, nhà kiểm duyệt (hoặc người có tư tưởng
kiểm duyệt) thường chân thành tin rằng kiểm duyệt có thể làm xã hội tốt
đẹp hơn, lành mạnh hơn, có thể bảo vệ trẻ em, thanh thiếu niên, và giữ
gìn hoặc khôi phục cái mà nhà kiểm duyệt cho là “giá trị tinh thần”,
“bản sắc dân tộc”, hay “thuần phong mỹ tục”, v.v. Các nhà kiểm duyệt có
thể thật sự tin rằng một số “tài liệu” có chứa nội dung quá khích, chống
lại, thậm chí phá hoại trật tự xã hội hiện hành tới mức không còn cách
nào khác để ngăn chặn “tác hại” của chúng, ngoài việc “khai tử” cho các
“tài liệu” này, tức là loại bỏ chúng, không bao giờ công bố chúng. Một
số nhà kiểm duyệt khác thì lo ngại rằng những người trẻ tuổi hoặc yếu
đuối hơn sẽ có thể làm điều xấu do bị ảnh hưởng bởi các tư tưởng xấu.
Thậm chí, vẫn còn không ít người tin rằng có một ranh giới hết sức rõ
ràng giữa những tư tưởng “đúng đắn”, phù hợp với “đạo đức” và những tư
tưởng “sai trái”, “đồi bại”. Những người này muốn đảm bảo rằng xã hội sẽ
chỉ có lợi nếu tuân theo quan điểm của họ. Họ tin tưởng rằng một số cá
nhân nào đó, hoặc một số tổ chức, cơ quan, đoàn thể nào đó, thậm chí
toàn xã hội sẽ lâm nguy nếu một số tư tưởng riêng rẽ nào đó được lan
truyền rộng rãi mà không bị ngăn cản.
Trớ trêu thay, điều mà các nhà kiểm duyệt thường không để tâm đến là
kiểm duyệt không khác gì con dao hai lưỡi đối với chính các nhà kiểm
duyệt. Cụ thể là, nếu như ngày hôm nay các nhà kiểm duyệt thành công
trong việc loại trừ hay đàn áp các tư tưởng mà họ không thích, ngày mai
những người khác có thể sẽ dùng chính cái tiền lệ đó để loại trừ hay đàn
áp những tư tưởng mà các nhà kiểm duyệt hôm nay đang ưng ý. Cách đây
150 năm, trong tác phẩm Bàn về tự do (1859), John Stuart Mill [1] đã
viết: “Nếu như toàn nhân loại, ngoại trừ một người, có chung một quan
điểm, và chỉ có một người duy nhất có quan điểm trái ngược, thì bằng
cách bịt miệng người đó, toàn nhân loại cũng chẳng có lý gì hơn là chính
người đó, nếu y có quyền, sẽ dùng quyền lực của mình để bịt miệng toàn
nhân loại.” Ông còn viết: “Chúng ta không bao giờ có thể chắc chắn rằng
quan điểm mà chúng ta đang gắng sức bóp chết là một quan điểm sai; và
nếu chúng ta có chắc chắn đi chăng nữa thì việc bóp chết nó vẫn cứ là
một điều quái gở.”
C. Mối quan hệ giữa kiểm duyệt và tự do trí tuệ
Những quyền mà các nhà kiểm duyệt thực hiện khi họ phát biểu quan
điểm hoặc mối lo ngại của họ về các tác phẩm của đương sự (nhà xuất bản
hay tác giả) cũng chính là những quyền mà đương sự đó cần được bảo vệ
khi đối mặt với nhà khiểm duyệt. Điều đó có nghĩa là khi các nhà kiểm
duyệt công bố cho công chúng biết sự phê phán của họ chống lại một số ý
tưởng nào đó, họ đã thực hiện những quyền đúng như những quyền của người
sáng tạo ra hoặc truyền bá các “tài liệu” mà các nhà kiểm duyệt phản
đối. Điều đó cũng có nghĩa là, trong một xã hội dân chủ, quyền của các
nhà kiểm duyệt trong việc phát biểu và thuyết phục người khác chấp nhận
quan điểm của mình sẽ được luật pháp bảo vệ chừng nào quyền của những
người phát biểu quan điểm đối nghịch cũng được luật pháp bảo vệ. Quyền
của cả hai phía đều phải được luật pháp bảo vệ như nhau. Nếu không,
không phía nào có thể tồn tại lâu dài được.
Lịch sử nhân loại đã làm chứng cho vô vàn các cuộc kiểm duyệt. Sách
vở thường xuyên bị kiểm duyệt vì nội dung chính trị, tình dục, hoặc ngôn
ngữ xúc phạm tới chủng tộc, dân tộc, văn hóa, giới tính, lập trường
chính trị, tín ngưỡng, tôn giáo của các nhóm người khác nhau. Các tài
liệu bị coi là nhảm nhí, tục tĩu, khiêu dâm, hoặc không thích hợp cho
thiếu nhi cũng thường bị kiểm duyệt. Từ khi nhân loại bắt đầu lưu giữ
được các biểu hiện của mình bằng văn bản, nhiều người đã bị thiêu sống
trên giàn lửa, bị ép uống thuốc độc tự tử, bị đóng đinh câu rút, bị giam
cầm, đày ải, hành hạ, sỉ nhục chỉ vì những gì họ đã viết ra và tin
theo. Sau đây chỉ là một vài ví dụ điển hình. Đầu năm 213 TCN Tần Thủy
Hoàng định “xóa sổ” lịch sử bằng cách ra lệnh đốt tất cả sách sử trừ
những sách sử của nhà Tần. Những ai tàng trữ hai bộ Kinh Thi vàKinh Thư
hoặc sách vở của trăm nhà đều phải đem trình quan để đốt đi. Hai người
dám bàn nhau về Kinh Thư, Kinh Thi thì chém giữa chợ, lấy đời xưa mà chê
đời nay thì giết cả họ. Một năm sau Tần Thủy Hoàng ra lệnh bắt 460 Nho
sĩ đem chôn sống. Heinrich Heine từng viết trong vở kịch Almansor (1821)
của mình: “Ở nơi nào người ta đã đốt sách, người ta sẽ kết thúc bằng
đốt sinh mạng con người”. Một thế kỷ sau, lời tiên trì của Heine đã
thành sự thật ngay tại quê hương ông. Năm 1933 những người Đức Quốc xã
bắt đầu bằng việc đốt sách tại Berlin. Trong số sách báo bị đốt đó có cả
các tác phẩm của chính Heinrich Heine. Tám năm sau, Đức Quốc xã dựng
nên các trại tập trung và lò thiêu người, mà điển hình là trại
Auschwitz, nơi một triệu một trăm ngàn con người đã bị thiêu chết, trong
đó 90% là người Do Thái. Tại Liên Xô trong những năm 1940 – 1950 Stalin
đã ra lệnh đốt toàn bộ sưu tập sách của người Do Thái thuộc thư viện ở
Birobidzhan – thủ phủ của khu vực tự trị của người Do Thái lúc bấy giờ,
nằm ở Viễn Đông, giáp vùng Khabarovsk, Amur của Nga, và biên giới giữa
Nga và Trung Quốc. Trong cuốn Khủng bố vĩ đại tác giả Robert Conquest
cho biết khoảng 10 triệu người đã bị hành quyết hoặc chết trong các nhà
tù dưới chế độ Stalin. Khi Stalin chết vào năm 1953, Liên Xô có 12 triệu
người bị giam trong các trại tập trung.
Trong số những lời phản đối kiểm duyệt của các trí thức và nhân vật
lừng danh trên thế giới trong lịch sử cận đại, hùng hồn nhất có lẽ là
phát biểu của thủ tướng Anh Winston Churchill. Ông nói: “Các bạn hãy
nhìn các nhà độc tài đang ngự trên bệ, bao bọc bởi những hàng lưỡi lê
của quân lính và dùi cui của đội cảnh sát của họ. Thế nhưng con tim của
họ đang bị bao trùm bởi một nỗi sợ hãi không nói được và không thể nói
được nên lời! Họ sợ các lời nói và ý nghĩ. Những lời nói được phát ra
bên ngoài, những ý nghĩ sôi sục bên trong, tất cả bỗng chốc trở nên mạnh
mẽ hơn, chính bởi vì chúng bị cấm đoán. Những cái đó làm họ hoảng sợ.
Chỉ một con chuột nhắt, một tư tưởng nhỏ xíu như con chuột nhắt, xuất
hiện trong phòng đã khiến cả những thống lãnh quyền lực nhất rơi vào
trạng thái hoảng loạn.”
D. Sự vô nghĩa của kiểm duyệt tự do trí tuệ trong thời đại internet
Trong bức thư ngày 7 tháng 1 năm 1794 gửi nhà độc tài Robespierre [2]
vì đã đốt tờ báo Vieux Cordelier, nhà cách mạng và nhà báo Pháp Camille
Desmoulins [3] đã trích dẫn lời của Jean-Jacques Rousseau: “Đốt không
phải là câu trả lời”. Desmoulins đã phải trả giá cho câu nói của mình
bằng chính mạng sống của ông: Ngày 31 tháng 3 năm 1794 ông bị bắt và bị
đem ra xử tại “Tòa án cách mạng”. Tại đây ông bị buộc tội “gián điệp”,
bị từ chối quyền tự bào chữa, rồi bị kết án tử hình ngày 5/4/1794 lúc
ông mới 34 tuổi [4]. Mặc dù cái kết cục bi thảm ấy thường được lặp đi
lặp lại nhiều lần trong lịch sử, câu trích dẫn lời Jean-Jacques Rousseau
đã vạch rõ một chân lý hiển nhiên: “Không thể thuyết phục được một con
người bằng cách bịt miệng anh ta“.
Lịch sử đã sang trang trong hai thập kỷ cuối và nền văn minh nhân
loại đã bước sang một thời đại mới: thời đại của internet. Hơn cả máy
in, điện thoại, radio, rồi vô tuyến truyền hình, internet là phương tiện
lan truyền tự do ngôn luận và tự do tư tưởng mạnh mẽ nhất và dân chủ
nhất mà con người từng được biết đến. Khi mà bất cứ người nào ở bất cứ
nơi đâu (được nối mạng) trên thế giới cũng có thể gửi mọi thông tin,
ảnh, phim video, âm thanh lên internet để toàn thế giới có thể đọc, xem,
nghe được ngay tức khắc, kiểm duyệt dần dần trở nên bất lực, trơ trẽn,
lố bịch, và vô nghĩa. Tự do ngôn luận dần dần trở thành cái gì đó không
ai có thể hạn chế được.
Trong phần kết của bài báo “Những chiến sĩ của mặt trận tàng hình”
[5] đăng tại Tạp chí Nga ngày 8/6/2006, tác giả Alexander Kolesnichenko
đã kết luận: “Internet là phương tiện thông tin đại chúng tự do nhất
trong các phương tiện từng tồn tại từ trước tới giờ. Chẳng bao lâu nữa,
chúng ta sẽ được lựa chọn trên internet không chỉ những gì để đọc, mà
còn để nghe và nhìn nữa. Cứ mặc kệ cho nhà nước tiếp tục kiểm soát vô
tuyến truyền hình và những tập đoàn đặc quyền đặc lợi tiếp tục chiếm hữu
các tờ báo của họ. Như người đời thường nói, cứ kệ cho họ chiếu và viết
những nhăng nhít mà chỉ có chính họ sẽ xem và đọc mà thôi.”
Tokyo 22/5/2006
Hiệu đính ngày 24/5/2009
Chú giải
*) Phần A, B và C của bài viết này chủ yếu dựa trên trang
“Intellectual freedom and censorship Q & A” tại website của American
Library
Association:http://www.ala.org/ala/aboutala/offices/oif/basics/ifcensorshipqanda.cfm.
[1] John Stuart Mill (1806 – 1873) – triết gia theo tư tưởng tự do người Anh
[1] John Stuart Mill (1806 – 1873) – triết gia theo tư tưởng tự do người Anh
[2] Maximilien Robespierre (1758 – 1794) – một trong các lãnh tụ khét
tiếng nhất trong thời kỳ Khủng bố (1793 – 1794) của Cách mạng Pháp
(1789 – 1799). Bắt đầu như một người theo phái tư tưởng tự do, lấy tác
phẩm của Jean-Jacques Rousseau làm sách gối đầu giường, Robespierre có
niềm tin ngây thơ đến mù quáng vào cuộc cách mạng Pháp. Trong giai đoạn
gay cấn nhất của cuộc cách mạng, Robespierre được bầu làm người đứng đầu
Ủy ban An toàn Công cộng (một dạng Ủy ban An ninh Quốc gia (KGB) của
thời Cách mạng Pháp) gồm 12 ủy viên. Đây là ủy ban thừa hành thực chất
có quyền lực nhất. Để chống lại các lực lượng “phản cách mạng” trong
nước, Ủy ban này ban hành chính sách của thời kỳ Khủng bố. Trong diễn
văn ngày 5 tháng 2 năm 1794 Robespierre biện hộ cho Khủng bố như một
biện pháp của lòng yêu nước và công lý để bảo vệ “thành quả cách mạng”
là “tự do” và “bình đẳng”. Ông tuyên bố xã hội chỉ bảo hộ các công dân
hòa bình, mà theo định nghĩa của ông đó là những người Cộng hòa. Những
người bảo hoàng và những người âm mưu chống đối bị ông xếp vào hàng kẻ
thù của tự do, phải bị Khủng bố trừng trị. Chỉ trong trong vòng 5 tháng
từ tháng 9/1793 đến tháng 2/1794 chỉ riêng Tòa án Cách mạng ở Paris đã
kết án và chặt đầu gần 300 người. Riêng trong ngày Robespierre đọc diễn
văn nói trên, có hơn 5000 người bị giam trong các nhà ngục ở Paris chờ
xử án. Chính bản thân Robespierre cũng trở thành nạn nhân của bộ máy mà
ông là người tham gia sáng lập: Sốt ruột vì tiến trình chậm chạp của
cách mạng, Robespierre đưa ra lời đe dọa Quốc hội. Chỉ 5 tháng sau bài
diễn văn, Robespierre bị bắt và bị kết án tử hình.
[3] Camille Desmoulins (1760 – 1794) – nhà cách mạng và nhà báo Pháp,
nổi tiếng bởi bài diễn thuyết mở màn cho cuộc tấn công nhà ngục
Bastille. Ngày 12/7/1789, nghe tin vua Louis XVI cách chức tổng trưởng
tài chính Necker – một người theo phe cải cách, Desmoulins đã nhảy lên
bàn tại một quán café cạnh Hoàng cung (Palais Royal) và loan tin cho đám
đông khoảng một vạn dân chúng về vụ bãi nhiệm nhà cải cách và nguy cơ
bị các đạo quân người Thụy Sĩ và Đức của nhà vua thảm sát. Trong lúc cao
hứng, ông kêu gọi dân chúng cướp vũ khí xuống đường. Cuối cùng ông rút
trong túi ra hai khẩu súng lục và tuyên bố với đám cảnh sát đang theo
dõi nhất cử nhất động của ông rằng ông thà chết chứ không chịu rơi vào
tay họ. Ông nhảy từ trên bàn xuống trong vòng tay nồng nhiệt của đám
đông. Hành động của Desmoulins đã châm ngòi cho hàng loạt cuộc nổi dậy
của dân chúng và quốc dân quân tại Paris trong 2 ngày tiếp theo. Ngày
14/7/1789 đám đông khoảng một ngàn người tấn công nhà ngục Bastille để
cướp vũ khí. Sau 4 tiếng đồng hồ cầm cự, thống chế de Launey đầu hàng,
bị đám đông bắt, bị đâm nhiều nhát dao cho đến chết, rồi bị chặt đầu đem
diễu phố.
[4] Gieo gió thì gặt bão, chỉ bốn tháng sau đó, chính bản thân Robespierre cũng bị bắt và bị đưa lên máy chém ngày 28/7/1794.
[5] Александр Колесниченко “Бойцы невидимого фронта”, Русский Журнал, 8/6/2006.
© 2009 Nguyễn Đình Đăng