Evgeny Morozov/ New Republic
Có hai cách để hiểu lầm về Internet. Cách thứ nhất là ôm giữ ảo
tưởng về một thế giới đại đồng online, như thể Internet là một vốn liếng
dân chủ hóa. Những người theo đuổi ảo tưởng này tin rằng chỉ cần mặc kệ
Internet, nó sẽ tự tiêu diệt các chế độ độc tài, tự làm suy yếu chủ
nghĩa tôn giáo từ chương, và tự làm thất bại các tập đoàn cai trị.
Một cách khác, tinh vi hơn, là rơi vào một ý thức
hệ lấy Internet làm trung tâm: chủ nghĩa duy-Internet. Những tín đồ của
chủ nghĩa này vui vẻ thừa nhận rằng những công cụ kĩ thuật số không
phải lúc nào cũng hoạt động như dự kiến, và có thể được tận dụng bởi
những kẻ thù của nền dân chủ. Đối với họ, Internet chỉ có một tầm quan
trọng thứ yếu; họ hứng thú với ý nghĩa của công cụ này hơn. Ý nghĩa ẩn
chứa trong Internet giờ đã được giải mã: phi tập trung hóa để đánh bại
quyền lực tập trung, làm việc theo mạng lưới (networking) để đánh bại hệ
thống phân cấp, dựa vào đám đông để đánh bại các chuyên gia. Để tận
dụng triệt để những lợi ích của Internet, thúc đẩy chủ nghĩa
duy-Internet, chúng ta cần tái định hình thể chế chính trị và xã hội.
Để đi đến chương trình cải cách này, họ phải trải qua một đoạn đường
khá quanh co. Đầu tiên, họ cho rằng Internet có một logic riêng, và
logic này đang tái định hình một loạt các ngành công nghiệp và các nền
tảng kĩ thuật số. Hãy nghe Clay Shirky – người phát ngôn quen thuộc nhất
của Ý tưởng McLuhanesque, hay ý tưởng rằng Internet có một logic mạch
lạc – giải thích vì sao chúng ta đang rất lo lắng về những đe dọa của
Facebook đối với quyền riêng tư:
“Chúng ta đang lo lắng về sự riêng tư trên Facebook theo cái cách mà
nền công nghiệp âm nhạc bị ám ảnh bởi Napster, và ngành công nghiệp báo
chí bị ám ảnh bởi Craigslist. Nói cách khác, logic mà Facebook đang
phơi bày vốn đã tiềm ẩn trong bản thân Internet, trong tất cả các trang
mạng, và hiện tượng Facebook chỉ là một trong những biểu hiện quen thuộc
của nó thôi”.
Khi logic khó nắm bắt của Internet đã được xác định, những người
theo chủ nghĩa duy-Internet bắt đầu đi quảng bá những ý tưởng mới lạ về
nó. Chẳng hạn, Yochai Benkler, một học giả ngành luật ở Harvard, đã khéo
léo giới thiệu logic của Internet bằng cách mô tả thế giới đáng kinh
ngạc của Wikipedia, phần mềm mã nguồn mở và file-sharing. Sau đó, ông
còn dùng chúng để dệt nên một câu chuyện lớn hơn về bản chất của con
người. Đối với Benkler, Internet đã chứng minh rằng con người có bản
chất tốt đẹp, ham hợp tác; và những hệ thống chính trị của chúng ta, vốn
được định hình bởi quan điểm đen tối của học thuyết Hobbes về con người
tự nhiên, chưa bao giờ là đủ để tạo nên một sự tương tác xã hội đúng
nghĩa.
Thay vì xem Internet như một công cụ, Benkler chủ yếu coi nó như một
ý tưởng để chứng minh (hoặc bác bỏ) những lí thuyết triết học về cách
thức vận hành của thế giới. Ông tin rằng nó đang tiết lộ một sự thật,
rằng con người thích hợp tác với nhau. Không đáng ngạc nhiên, khi
Internet chỉ chiếm vài chương trong cuốn sách gần đây nhất của Benkler.
Trong phần còn lại, ông triển khai những nghiên cứu mới nhất trong sinh
học tiến hóa, khoa học thần kinh và kinh tế học thực nghiệm, để tìm ra
linh hồn của Internet trong sự tương tác giữa Toyota và các ngư dân đánh
bắt tôm hùm, hoặc giữa những nông dân Tây Ban Nha và chiến dịch tranh
cử của Obama năm 2008.
Nỗ lực này, nhằm tái khám phá những giới hạn và chủng loại trong
thực tế của một nền văn hóa Internet được cho là thống nhất, là ý tưởng
quan trọng đằng sau chủ nghĩa duy-Internet. Trong việc xác định cái gì
là khả tri, trong những giới hạn nào, và vì những mục đích nào, chủ
nghĩa duy-Internet tạo nên một nhận thức luận mới lạ của riêng nó. Thực
ra, về mặt bản chất, nếu không tính tới sự khác biệt giữa hai thần thánh
được các tín đồ thờ phụng, thì chủ nghĩa này cũng tương tự như
anthropocentrism (chủ nghĩa lấy con người làm trung tâm). Hầu hết các
tín đồ của chủ nghĩa duy-Internet, theo truyền thống, vẫn giữ im lặng về
bản chất nửa-tôn-giáo của nó. Nhưng sau cùng, với việc xuất bản cuốn
“Tương Lai Hoàn Hảo” của Steven Johnson, họ cũng đã có một bản tuyên
ngôn tóm tắt những giáo lí chính trong thế giới quan của mình, và tuyên
ngôn này bán rất chạy.
Cũng như Shirky và Benkley, Johnson đang phải vật lộn với những câu
hỏi hóc búa về ý nghĩa của Internet. Theo kết luận của ông này, thì lịch
sử của Internet đã chứng minh rằng so với sự tập quyền truyền thống, sự
tản quyền sẽ thích hợp hơn. Những giao thức Internet đầu tiên được xây
dựng trên nguyên tắc chuyển mạch gói, trong đó dữ liệu cần truyền được
chia thành các gói, gửi đi bằng những đường truyền riêng biệt, rồi được
tập hợp và ráp lại khi tới nơi. Các gói thông tin có thể du hành qua vô
số tuyến đường khác nhau, và hoàn toàn độc lập với nhau, nên một thẩm
quyền tập trung là không cần thiết. Google và Wikipedia cũng được phát
triển dựa trên tính phi tập trung hóa. Chẳng hạn, để xếp hạng các trang
web một cách hợp lý, Google nghiên cứu xem các site đó liên kết như thế
nào với nhau. Chỉ số liên quan của Google, sau đó, được hình thành từ
quyết định cá nhân của hàng triệu chủ sở hữu các trang web, chứ không
được định đoạt bởi kế hoạch của một quyền lực tập trung nào.
Johnson thậm chí còn tuyên bố rằng việc tạo ra ARPANET – tiền thân
của Internet, được Lầu Năm Góc tài trợ – và TCP/IP – giao thức truyền
thông quan trọng nhất của Internet – là “những cột mốc quan trọng trong
lịch sử triết học chính trị”. Đây là một tuyên bố quả quyết. Để bổ trợ
cho nó, ông viết tiếp: “ARPANET là một hệ thống được phi tập trung hóa
một cách triệt để, mà bằng cách nào đó, đã được sinh ra bởi một cơ quan
có lối tổ chức siêu tập trung”. Hệ thống này dựa vào “những cấu trúc có
tính lỏng, năng động, thiếu sự kiểm soát tập trung và phân cấp”. Johnson
gọi những cấu trúc lỏng này là “peer networks” (mạng ngang hàng). Theo
ông, hình thức tổ chức này đã xuất hiện trong những dự án sáng tạo có
trước Internet.
Với ý kiến của Johnson, rằng cấu trúc tản quyền đã thúc đẩy sự phát
triển của không chỉ cơ sở hạ tầng Internet, mà còn cả những dự án chuyên
đề của nó như Wikipedia, chúng ta trở lại với chủ nghĩa duy-Internet và
ý tưởng rằng có một logic chặt chẽ đang vận hành Internet và những
thành phần của nó, như phần cứng phần mềm, những nền tảng và người sử
dụng. Logic này có thể sẽ không giải quyết được mọi vấn đề của thế giới,
nhưng nó nên là phản ứng mặc định của chúng ta trước những điểm bất hợp
lí trong tình hình xã hội và chính trị hiện nay. “Khi một nhu cầu xuất
hiện trong xã hội mà chưa được đáp ứng, việc đầu tiên chúng ta nên làm
là xây dựng một mạng ngang hàng để giải quyết nhu cầu này”.
Làm sao chúng ta có thể không cải cách thế giới xung quanh mình, khi
ta biết rằng một thứ bất thường như Wikipedia đang thật sự hoạt động?
“Wikipedia chỉ là sự khởi đầu” – Johnson say mê nói.” Chúng ta có thể
học hỏi từ thành công của nó để xây dựng những hệ thống mới nhằm giải
quyết các vấn đề trong giáo dục, hành chính, chăm sóc sức khỏe, cộng
đồng địa phương, và một lượng vô hạn các lĩnh vực khác mà con người từng
trải nghiệm”. Những dự án như Wikipedia chỉ là một lời nhắc nhở rằng
logic của Internet là cách thức đúng đắn để vận hành thế giới; và khi
chúng ta dựa vào nó để sửa sang lại những tổ chức và hoạt động của mình
cho phù hợp, nó sẽ giúp giải quyết những vấn đề khó nhắn nhất của chúng
ta.
Đối với Johnson, Internet không phải là giải pháp, mà là một cách
thức hiệu quả để nghĩ về giải pháp. Ông tuyên bố: “Người ta có thể vừa
sử dụng Internet để trực tiếp cải thiện đời sống dân chúng, vừa học hỏi
cách thức tổ chức của nó để cải thiện cách thức vận hành của chính quyền
thành phố, hoặc các thức giảng dạy mà hệ thống trường học áp dụng cho
học sinh”. Nhưng giải pháp này thuộc loại nào? Phải chăng Johnson chỉ là
một kẻ theo chủ nghĩa tự do cá nhân nấp sau những thông điệp về
Internet? Sau tất cả, chẳng phải chương trình nghị sự mà ông đề nghị vẫn
xoay quanh việc thu hẹp chính phủ, chọc thủng những nỗ lục cải cách tốn
kém, và thay thế chúng bằng những giải pháp từ dưới lên theo mô hình
Wikipedia hay sao? Johnson gạt đi những chỉ trích này bằng cách giới
thiệu ý thức hệ của riêng ông – “chủ nghĩa thăng tiến ngang hàng” – theo
đó thừa nhận rằng chúng ta cần giữ lại một chính phủ lớn và tinh thần
cải cách của nó, nhưng cũng cần thúc đẩy các quan chức suy nghĩ theo
những cách mới mẻ hơn, thân-thiện-với-Internet hơn, để họ dần hiểu ra
rằng các cá nhân có thể không thông minh bằng các đám đông và các mạng
lưới.
Để đi đến kết luận này, Johnson so sánh phương pháp tiếp cận theo
chiều ngang của Kickstarter – một nền tảng trực tuyến, nơi người trong
các ngành công nghiệp sáng tạo có thể huy động vốn từ người hâm mộ, với
cách tiếp cận từ trên xuống của Quỹ Nghệ thuật Quốc gia (NEA). Cần lưu ý
rằng trong năm 2012, Kickstarter đã quyên được nhiều tiền hơn toàn bộ
ngân sách của NEA cộng lại. Johnson cho rằng thay vì phá dỡ NEA vì
chuyện đó, chúng ta nên tìm cách làm cho NEA trở nên giống Kickstarter
hơn. Và chúng ta có thể áp dụng những bài học tương tự ở nhiều nơi khác.
Johnson kêu gọi các chính phủ tưởng tượng cách thức mà “các nguyên tắc
cốt lõi của Internet có thể được áp dụng để giải quyết các loại vấn đề
khác nhau – những vấn đề đang xảy ra với các địa phương, các nghệ sĩ,
các công ty dược, trường học, phụ huynh”.
Lập luận của Johnson là thế này: trước thời Internet, các tổ chức
của chúng ta không thể có tính tương tác cao, tính phi tập trung hóa và
phi lãnh đạo như Wikipedia và Kickstarter đang có. Ngày nay chúng có
thể, và cũng nên có những tính chất kể trên. “Trước thời Internet, chúng
ta không có Kickstarter hoặc Wikipedia vì chi phí để tổ chức và kết nối
một lượng người như vậy là quá lớn”, ông viết. Bây giờ, khi chi phí đã
giảm, không còn lí do chính đáng để hệ thống phân cấp tồn tại lâu hơn.
* * *
Trong suốt cuộc trò chuyện về triết học chính trị
của mình, Johnson thậm chí đã không đặt ra cả những câu hỏi triết học
căn bản nhất. Sẽ phải nhìn nhận thế nào, nếu độ tương tác hạn chế của
nền dân chủ trong thời kì tiền-Wikipedia không chỉ là hệ quả của chi phí
lớn, mà còn xuất phát từ nỗ lực nhổ bỏ tận gốc chủ nghĩa dân túy và bảo
vệ quyết định của các chuyên gia? Nói cách khác, nếu một số tổ chức
công né tránh việc mở rộng khả năng tham gia của người dân vì một lí do
đơn giản là nó chẳng có gì để làm với việc kết nối, thì trong trường hợp
này, phải chăng “logic Internet” là giải pháp cho một vấn đề không tồn
tại?
Để hiểu vì sao Johnson không hề cân nhắc những câu hỏi quá rõ ràng
ấy, phải nhìn rõ không gian giới hạn của chiến trường chính trị mà ông
đang tham gia. Những phân tích của ông chủ yếu xoay quanh cấp độ thành
phố. Ông rất hiếm khi nhắc tới hệ thống quốc tế hoặc các nhà nước – quốc
gia. Những ví dụ ưa thích của ông về “chủ nghĩa thăng tiến ngang hàng” –
Đường Dây Nóng 311 của thành phố New York, nơi bất cứ ai tìm kiếm thông
tin về các vấn đề của thành phố đều được chào đón bởi một nhân viên
tổng đài, rồi chuyển hướng đến nguồn thông tin phù hợp; và sáng kiến
SeeClickFix, thứ cho phép bất cứ ai sử dụng Internet đều có thể thông
báo với nhà chức trách về các vấn đề của khu dân cư – cả hai đều xoay
quanh việc điều hướng hoặc sửa chữa cơ sở hạ tầng đô thị đang hư hoại.
Những hệ thống giúp tập hợp và phân phát thông tin theo cách tốt hơn
chắc chắn sẽ giải quyết được nhiều vấn đề, nhưng đó là những vấn đề rất
đặc biệt. Giờ hãy lấy một ví dụ khác: liệu sự can thiệp miễn cưỡng của
Hoa Kỳ ở Syria có thể được đổ lỗi cho sự thiếu thông tin hay không? Hay
thay vào đó, nó xuất phát từ sự thiếu ý chí và vô nguyên tắc? Liệu việc
áp dụng logic tham gia của Kickstarter cho Quỹ Quốc gia vì Dân chủ (NED)
hay ban hoạch định chính sách của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ có giúp cải
thiện những chính sách thúc đẩy dân chủ hay không? Hay nó chỉ làm tăng
những đòi hỏi truy tìm Joseph Kony từ đám người theo chủ nghĩa dân túy?
Chẳng phải việc hạ thấp rào cản đối với sự tham gia của công chúng cũng
có thể gây tê liệt hệ thống, như những gì đã xảy ra ở California hay
sao?
Các tổ chức chính trị của chúng ta thường xuyên đối mặt với những
vấn đề không xuất phát từ sự thiếu thông tin. Tuy nhiên, sự bó buộc
trong qui mô thành phố của Johnson đã khiến ông kết luận một cách sai
lầm rằng hầu hết các vấn đề đều xuất phát từ những khoảng trống thông
tin, thứ có thể được lấp đầy bằng các dữ liệu tốt hơn một cách dễ dàng,
nhanh chóng và không tốn kém. Ông không hề đề cập đến việc một số vấn đề
(ngay cả ở cấp thành phố) chỉ có thể được giảm nhẹ thông qua thương
lượng, chứ không thể giải quyết triệt để, vì chúng nổi lên từ sự đối lập
giữa các nhóm lợi ích, chứ không phải từ khoảng trống thông tin. Thế
giới của Johnson là một thế giới hậu ý thức hệ, khi lịch sử đã chấm dứt,
và chính trị đã bị thu hẹp tới mức chỉ xoay quanh việc sửa chữa các ổ
gà và xem xét ứng dụng các bằng sáng chế. Trong thế giới tưởng tượng
này, tội ác duy nhất được tính đến là sự lười biếng của các quan chức,
thứ ngăn họ công bố dữ liệu ở những định dạng mà công chúng có thể dễ
dàng dùng máy tính cá nhân để truy cập.
Những dự án như 311 và SeeClickFix gần như không bị phản đối bởi bất
cứ ai. Sau cùng, ai muốn phản đối một cách thức nhanh và hiệu quả hơn
để thông báo cho nhà chức trách về các ổ gà? Nhưng sự tham gia của công
chúng vào các quyết định ngân sách – một ví dụ yêu thích khác của
Johnson – thì không hề như thế. Phương thức này là một nỗ lực cải cách
xuất phát từ thành phố Porto Alegre của Brazil, dựa trên nguyên tắc rằng
tiếng nói của cộng đồng địa phương phải có tác động đến việc chi tiêu
ngân sách của họ. Nó gây tranh cãi hơn nhiều so với 311 khi đe dọa tước
bỏ quyền lực của các quan chức, cùng những nhà qui hoạch và nhà phát
triển bất động sản đã gây dựng được những đường dây tham nhũng bền chặt,
để chuyển vào tay một nhóm thiệt thòi khi trước: người dân.
Trong thế giới tưởng tượng của Johnson, việc chuyển nhượng quyền lực
diễn ra suôn sẻ hoàn toàn. Không khó để hiểu vì sao: lý thuyết
duy-Internet trong chính trị của ông quá nông cạn. Hãy nhớ rằng
Wikipedia là một trang web mà bất cứ ai cũng có thể chỉnh sửa. Johnson
không thể giải thích những bối cảnh quyền lực và tình trạng bất bình
đẳng đã định hình môi trường hiện nay. Một khi những điều kiện này được
bổ sung vào bài toán, việc gia tăng mức độ tản quyền và sự tham gia của
dân chúng sẽ ít khả thi hơn nhiều. Ngay cả Wikipedia cũng đã cho chúng
ta thấy một câu chuyện phức tạp hơn nhiều về việc ủy quyền: đúng là mọi
người đều có quyền chỉnh sửa nội dung trên trang này, nhưng không phải
phần chỉnh sửa của bất cứ ai cũng được bảo tồn cho hậu thế. Việc này lại
phụ thuộc phần lớn vào những cuộc đấu tranh chính trị và quyền lực trên
Wikipedia.
Phương thuốc chính trị hạng hai của Johnson biến lập luận của ông
thành một câu chuyện cổ tích hão huyền. Hãy lấy các quyết định ngân sách
có sự tham gia của người dân làm ví dụ. Các học giả đã xác định được ba
thách thức sẽ làm sụp đổ những cải cách kiểu này: vấn đề thực thi, sự
bất bình đẳng và sự cấu kết. Vấn đề đầu tiên, rất hiển nhiên, là cả các
chính phủ lẫn các tổ chức phi chính phủ đều không muốn nhường quyền ra
quyết định về ngân sách cho các công dân. Vấn đề thứ hai cũng dễ dàng
nắm bắt: những người yếu thế trong xã hội thường không muốn tham gia vào
những chương trình như vậy, vì họ vừa không có thời gian để tham dự các
buổi hội họp, vừa không có đủ tự tin để phát biểu ý kiến của mình. Và
cuối cùng, kiểu ra quyết định ngân sách này có thể được sử dụng để thu
phục những nhóm xã hội dân sự ngang bướng. Bằng cách cho chúng chơi với
một khoản ngân sách nhỏ, và tích hợp chúng vào những cấu trúc nhà nước
hiện hành, chính phủ có thể vô hiệu hóa nhiều lực lượng phi chính phủ
mạnh.
Cả ba vấn đề này đều có thể khắc phục, khi các nhóm yếu thế học cách
từ chối cái ôm chặt của nhà nước bằng việc tổ chức thành các liên minh.
Ở Porto Alegre, nơi ý tưởng này xuất phát, cả ba trở ngại đều đã được
vượt qua. Nhưng Johnson không hề đề cập tới lí do khiến người ta làm
được điều đó. Trong thực tế, việc để người dân tham gia vào các quyết
định ngân sách là chương trình mũi nhọn của đảng Lao động – đảng cầm
quyền quyền ở Porto Alegre trong thời gian từ năm 1989 đến năm 2004. Ý
tưởng về quyền tham gia lớn hơn cho cộng đồng không chỉ phản ánh lí
tưởng cánh tả của đảng, nó còn là một biện pháp để gạt bỏ chủ nghĩa bảo
trợ, thứ đã cản trở những cải cách ở Brazil trong nhiều thập niên.
Thí nghiệm Porto Alegre đã không thành công nếu không được tiến hành
bằng một nỗ lực tập quyền. Ở đây, tập quyền là phương tiện để đạt được
sự tản quyền sau đó. Nếu không có những cấu trúc được tổ chức tốt, tập
quyền và phân cấp để đẩy lùi những lợi ích cố hữu, những nỗ lực để tăng
cường sự tham gia của dân chúng trong nền chính trị có thể sẽ đổ bể, và
thậm chí còn khiến những nhóm yếu thế bị tước bớt quyền lực. Đây là
chuyện đã xảy ra từ trước thời Internet, và, rất có thể, sẽ còn tiếp
diễn rất lâu.
Nhưng Johnson hoàn toàn mù quáng để nhận ra ưu điểm của sự tập
quyền. Trong cuộc thảo luận về 311, ông ca ngợi một thực tế rằng người
ta đã gọi đến đường dây nóng này để có cái nhìn vĩ mô tốt hơn về những
vấn đề của thành phố. Nhưng cái nhìn này là không đáng kể so với lí do
chính khiến hệ thống 311 hoạt động: quyết định của Thị trưởng Bloomberg
về việc tập trung hóa – chứ không phải phi tập trung hóa – cách giải đáp
thắc mắc về thành phố của ông. Đây là cách mà Accenture, công ty hỗ trợ
New York trong việc chuyển sang hệ thống 311, mô tả về nguồn gốc của dự
án:
“Trước 311, những khách hàng tìm kiếm sự hỗ trợ của chính phủ phải
đối mặt với hơn 4,000 mục trên 14 trang danh bạ điện thoại của thành phố
New York, và hơn 40 trung tâm điện thoại để chuyển thắc mắc cho những
sở ban chịu trách nhiệm. Viễn cảnh mà thị trưởng phác họa là một đường
dây giải đáp hiệu suất cao, tập trung, đa năng, thông qua một số điện
thoại dễ nhớ là 311″.
(Còn tiếp…)