Dương Thu Hương
Mỗi năm có hàng trăm cuộc đánh bom cảm tử tại Pakistan cũng đồng nghĩa với hàng trăm người tử vì đạo và hàng nghìn người vô tội khác thiệt mạng. Cộng đồng thế giới phẫn uất, lên án, nhưng đồng thời cũng băn khoăn và muốn thấu hiểu những sự thật nằm sau các hành động ấy. Nhà làm phim Sharmeen Obaid Chinoy đã hé mở một bí mật đáng sợ và kinh ngạc về cách mà Talibanthuyết phục trẻ em trở thành những kẻ đánh bom cảm tử.
Vốn thích nhạc không lời nhưng đôi khi tôi vẫn nhớ về một câu hát cũ,
“Anh ở đầu sông, em cuối sông. Chung nhau dòng nước Vàm Cỏ Đông…” Lãng
mạn sao, những cặp tình nhân cùng uống chung một dòng nước. Và hạnh phúc
thay những kẻ có thể sống cả đời bên một con sông êm đềm, qua những mùa
lúa chín không tiếng súng, những trưa hè có thể nép mình dưới bóng các
rặng cây. Nhưng đó là chuyện cổ tích.
Lịch sử cận đại của người Việt Nam đã diễn ra trong khói bom và tiếng
nổ của đạn pháo. Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ chia cắt đến tận lòng sâu của
mỗi gia đình. Sự nhầm lẫn, cự bất khả tri không chỉ xẩy ra giữa hai nền
văn hoá Đông-Tây mà còn xẩy ra ngay giữa lòng dân tộc Việt, giữa các
thành viên trong một gia đình, một dòng họ, giữa miền Bắc và miền Nam,
giữa bên thắng cuộc và bên thua cuộc, giữa người trong nước và những
người sống ngoài biên giới… Tóm lại, những người Việt cũng bị chia cách
bởi những con sông. Những con sông thiếu vắng những cây cầu.
Khoảng cách giữa người với người có thể còn dài rộng hơn sông, sâu
hơn vực thẳm, thế nên, dù trên địa hạt văn chương, tôi coi Albert Camus
cao hơn hẳn Jean Paul Sartre, tôi vẫn phải công nhận câu nói nổi tiếng
của Sartre là một nghiệm sinh có tính nhân loại, “Tha nhân là địa ngục
của ta.”
Đây là kinh nghiệm của chính tôi.
Năm 1994, tôi sang Pháp lần đầu, được một nhóm “Việt kiều yêu nước”
đón tiếp. Có lẽ tên ấy được đặt ra khi nhóm này tham gia vào phong trào
chống chiến tranh và người cầm đầu nhóm ấy đã từng là phiên dịch cho ông
Lê Đức Thọ trong các hội nghị đàm phán hưu chiến ở Paris. Khoảng năm
1990, cũng nhóm này đứng lên lấy chữ ký của Việt kiều trí thức ở Mỹ,
Đức, Úc và Pháp trong bản kiến nghị yêu cầu nhà nước và đảng cộng sản
Việt Nam mở rộng dân chủ. Sau bản kiến nghị ấy, họ bị cấm về nước một
thời gian khá dài, thậm chí còn bị gọi là “các phần tử phản động”.
Như thế, phải hiểu là giữa nhóm Việt kiều này với tôi có chung mục
đích tranh đấu cho quyền sống của người dân Việt Nam. Có lẽ cũng vì lý
do ấy, họ đón tôi, ít nhất đấy là điều tôi nghĩ. Cuộc đón tiếp diễn ra
nồng nhiệt, dường như mang mầu sắc bạn hữu. Tuy nhiên, chỉ một thời gian
sau, tôi nhận thấy giữa họ với tôi có rất nhiều điểm bất đồng, đặc biệt
là sự nhìn nhận về cuộc chiến tranh Việt-Mỹ.
Tôi tự nhủ, “Người ta sống trên đời, thường tụ thành bè, còn bạn là
thứ quý hiếm, nó còn quý hiếm hơn tình yêu vì không có bệ đỡ tình dục.
Tình bạn đòi hỏi một sự cảm thông sâu sắc, những phẩm chất tương đồng,
và cơ duyên để có thể cùng nhìn về một hướng, cùng đi theo một ngả. Vì
lẽ đó, tình bạn không thể có được một cách dễ dãi. Không có thứ tình cảm
nào không cần thử thách, cho dù là tình yêu, tình bạn hay tình đồng
đội, tất thảy đều cần phải nung qua lửa mới biết vàng thau”.
Nghĩ thế, tôi chọn thái độ im lặng, lảng tránh các cuộc tranh cãi, vì nếu không là bạn, hà tất phí nước bọt để đôi co?
Tôi biết rõ rằng, đối với nhóm Việt kiều này cuộc chiến tranh chống
Mỹ là cần thiết, là niềm kiêu hãnh, là đài vinh quang của dân tộc Việt
Nam. Đối với tôi, đó là sự nhầm lẫn lớn nhất trong lịch sử, là cuộc
chiến tranh ngu xuẩn nhất, tàn khốc nhất đã xảy ra trong một tình thế
đen trắng lẫn lộn, các khái niệm bị đánh tráo, kẻ tham gia cuộc chiến ở
phía Bắc nhầm lẫn do trói buộc bởi ngôn từ, kẻ tham chiến ở phương Nam
bị cuốn vào dòng chảy của cuộc Chiến tranh Lạnh, và cả hai bên đều bị
đặt vào thế đã rồi.
Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ là bài học đau đớn nhất, nhục nhã nhất cho
dân tộc Việt Nam, mà kẻ chịu trách nhiệm không chỉ là người Mỹ mà còn là
chính những người lãnh đạo cộng sản phía Bắc. Trong cuộc chiến tranh
ấy, dân tộc Việt tự biến mình thành vật đệm giữa hai toa tầu, là đám
lính đánh thuê cho hai hệ thống tư tưởng trái chiều đang tiến hành cuộc
chiến tranh Lạnh. Trong suốt một thập kỷ, nước Việt Nam đã thực sự biến
thành cái cối xay thịt khổng lồ nhất trong lịch sử của toàn thể loài
người. Vì lẽ ấy, theo tôi, cả người thắng lẫn người thua phải biết sám
hối, và nếu muốn lật trang cho lịch sử đất nước, trước hết kẻ thắng phải
biết câm mồm lại đừng huyênh hoang nữa; còn kẻ thua cũng phải biết câm
mồm lại, thôi chửi rủa, cả hai phía không nên tiếp tục đào bới cái thây
ma lên mà ngửi. Nếu không đủ can đảm nhìn nhận vấn đề như nó vốn thế, họ
chỉ còn là đám thú rừng bị lọt xuống một cái bẫy của lịch sử và không
bao giờ có thể nhẩy lên khỏi hố sâu.
Năm 2005, tôi trở lại Pháp.
Nhóm “Việt kiều yêu nước” chủ động mời tôi đến ăn cơm tối với họ để
trao đổi tình hình. Tôi nhận lời. Bữa cơm ấy diễn ra ở một quán ăn thuộc
quận 13. Trước khi đến Paris, tôi đã ở Turin (Ý) một tuần. Trong tuần
lễ đó, khá nhiều báo Ý đã phỏng vấn tôi và đã đăng bài tức khắc. Một
trong số các bài báo ấy, có đề tựa “Mười triệu người chết trong cuộc
chiến Việt Nam”.
Trong các cuộc phỏng vấn tại Turin, tôi đã kể lại hai điều:
- Thứ nhất, khi làm người viết thuê cho các ông tướng, tôi được nghe
họ nói với nhau: Chúng ta chỉ công bố con số thật sự khi người Mỹ bồi
thường chiến tranh. Như thế, con số phía Mỹ đưa ra (khoảng 5 triệu tử
vong) lẫn con số chính quyền Việt Nam đưa ra (hai triệu rưỡi) đều là số
sai sự thật.
- Thứ hai, chỉ khi đến Turin tôi mới biết lính các nước chết ra sao
và nhờ có sự so sánh ấy, tôi mới biết thân phận người lính và người dân
Việt Nam đau khổ đến mức nào. Năm 2005, cuộc chiến tranh đang xảy ra ở
Iraq. Báo mỗi ngày đều đăng tin bao nhiêu lính Mỹ, bao nhiêu lính Iraq
tử vong. Nếu con số đó chạm tới năm chục đã khiến các nhà báo làm rộn
lên, chất vấn tổng thống. Khi số tử vong chạm đến số 100 thì sự căng
thẳng trong chính trường đã khiến Nhà Trắng điên đầu. Trong chiến tranh
Việt-Mỹ, mỗi lần B52 bay qua, chỉ hai ba phút, dân thường, thanh niên
xung phong chết hai trăm, ba bốn trăm, thậm chí nơi đông hơn sáu trăm
người nhưng không có một dòng trên báo, không một câu trên đài phát
thanh. Không ai hay biết, kể cả người Việt lẫn người nước ngoài.
Tôi nói với các nhà báo Ý:
“Tới tận năm nay, gần sáu mươi tuổi tôi mới thấm thía sự khác biệt
giữa kiếp người. Nhờ đọc báo phương Tây, tôi mới biết là người Mỹ và
người Iraq chết như người, chết theo kiểu người. Chúng tôi, những người
Việt Nam, chúng tôi chết như kiến, chúng tôi chết như ruồi, chúng tôi
chết như lá khô rụng, cái chết của chúng tôi hoà lẫn bùn đen, và tan
trong câm lặng.”
Vì ở Turin có những Việt kiều liên hệ chặt chẽ với nhóm “Việt kiều
yêu nước” ở Paris và gửi báo cho họ nên trong bữa cơm tối hôm ấy, tôi
bắt buộc phải bàn cãi với họ về chủ đề chiến tranh Việt-Mỹ. Tôi đã thuật
lại cho họ nghe sự tổn thất to lớn của dân tộc khi những người lãnh đạo
mắc chứng vĩ cuồng. Rất nhiều trận xảy ra khi lực lượng trinh sát thăm
dò địa hình địa vật không kỹ, bộ phận hậu cần chuẩn bị khí tài chưa đủ
nhưng cấp chỉ huy ham lập thành tích nên cứ đẩy lính ra chiến trường,
kết quả là đại bại. Trong khi ở chiến trường xác lính chết ngập suối,
nước không chảy được, chim cắt chim kền kền ăn thịt no đến mức không bay
lên nổi, lệnh ở Hà Nội vẫn tiếp tục giục tấn công. May mắn là còn có
những vị tướng biết thương dân, thương lính, khóc đỏ mắt, quyết định rút
quân và làm báo cáo giả để gỡ tội.
Hồi ấy, tổng tư lệnh của cuộc chiến là Lê Duẩn, đã đưa ra khẩu hiệu:
“Dân tộc chúng ta là dân tộc anh hùng, chỉ có thắng không có thua.
Quân đội chúng ta là quân đội anh hùng, chỉ có tiến không có lùi.”
Điều đó có nghĩa: Chỉ tiến công, không phòng thủ!
“Dân tộc chúng ta là dân tộc anh hùng, chỉ có thắng không có thua.
Quân đội chúng ta là quân đội anh hùng, chỉ có tiến không có lùi.”
Điều đó có nghĩa: Chỉ tiến công, không phòng thủ!
Xưa nay, trong lịch sử ngàn năm chống ngoại xâm của dân tộc, bao giờ
chúng ta cũng lùi về rừng núi để chờ thời gian mài mòn lòng kiêu ngạo
lẫn ý chí quân địch, cũng là để khí hậu nhiệt đới khắc nghiệt quật ngã
chúng, cũng là để củng cố quân đội rồi chờ thời cơ thuận lợi mới huy
động binh lính và dân chúng tổng tấn công. Khẩu hiệu của ông Lê Duẩn đưa
ra là một sự sáng tạo thuần tuý, một ý thơ bay bổng, xuất phát từ tham
vọng và lòng kiêu mạn cộng sản. Nhưng thơ phú là thứ chỉ để ngâm ngợi
khi gió mát trăng thanh, thơ mà trà trộn với chiến tranh nó biến thành
núi xương sông máu.
Đám tướng lĩnh không dám tuyên bố thẳng thừng, nhưng đều hiểu ngầm rằng lãnh tụ của họ là một kẻ vĩ cuồng.
Nhóm “Việt kiều yêu nước” ở Paris nghe tôi nói xong thì hai nhân vật chủ chốt phản ứng dữ dội. Ông X bảo:
- Mục tiêu biện minh cho phương pháp. Muốn thắng cuộc trong chiến tranh thì phải chấp nhận tất cả.
Ông Y phản ứng với con số Mười triệu:
- Con số đó không thật. Ở nước Pháp chúng tôi có các biện pháp khoa
học về dân số để chứng mình là con số ấy sai. Làm sao chị có thể nghe
theo mấy thằng tướng ngu ấy được?
Tôi im lặng không đáp. Nhưng hôm sau, tôi có nhờ ông Phan Huy Đường, lúc đó còn dịch sách của tôi, nói lại với ông Y:
- Nhờ Đường nói với ông bạn của Đường là về Việt Nam chớ mở mồm mà
bảo mấy ông tướng là ngu. Bởi vì, rất nhiều hạ sĩ quan thời đó (trung
uý, đại uý, thiếu tá…) biết rõ rằng sinh mạng họ được bảo tồn là nhờ
những ông tướng thực sự thương lính và không ham thành tích như tướng Vũ
Lăng. Bây giờ, nếu không giải ngũ họ cũng đã leo lên đại tá hoặc thiếu
tướng. Nếu ông Y mở mồm bảo tướng của họ là thằng ngu hẳn họ sẽ cho một
báng súng vào đầu, hiền hoà nhất họ cũng khạc vào mặt.
Đấy là phản ứng duy nhất của tôi. Trong thâm tâm, tôi quyết định chia tay.
Tôi nghĩ, đám người này cần cuộc chiến tranh chống Mỹ như người đàn
bà cần son phấn. Giữa họ với ta chẳng còn điều gì đáng nói. Một cuộc
chia tay vĩnh viễn là điều hợp lý hơn cả. Không cần kiệt xuất thông
minh, chỉ cần chịu khó quan sát sẽ thấy ngay rằng cộng đồng người Việt ở
nước Pháp là một cộng đồng không bản sắc, sống co cụm, một bầy thỏ
ngoan ngoãn đối với chính quyền. Họ không gây ra các vụ lộn xộn như
người da đen và người Arab theo đạo Hồi, nhưng họ cũng chẳng có tiếng
nói, chẳng có một gương mặt nào trên các diễn đàn quyền lực. Vì bản chất
nhẫn nhịn, chịu thương chịu khó nên họ thành công ở mức trung bình, trở
thành kỹ sư, bác sĩ, nha sĩ, giáo viên đã là giấc mơ tột đỉnh. Hội nhập
vào xã hội Pháp chưa lâu, sự tự tin vào bản thân chưa đủ, họ lại bị ám
ảnh bởi thân phận lớp người Việt Nam nhập cư trước họ, những người lính
thợ bị thực dân cưỡng bức rời quê hương sang Pháp phục vụ tại một số nhà
máy làm thuốc súng để thay thế cho các công nhân Pháp ra chiến trường.
Năm 1937, để dự phòng chiến tranh, bộ trưởng Bộ Thuộc Địa và Quân Đội
(ministre de la Colonie et de la Défense) Georges Mandel dự tính tuyển
80.000 người Đông Dương. Tháng 6 năm 1940 đám thanh niên Việt Nam được
dẫn đến hải cảng Pháp gồm: 10.750 người trung kỳ, 7.000 người miền Bắc,
2.000 người miền nam. Đám lính thợ này đã bị đối xử như những con vật,
bị dồn vào sống trong những khu nhà tồi tàn, không điện và thiếu nước,
không nơi vệ sinh, không lò sưởi và thức ăn không đủ nửa khẩu phần. Mùa
đông, những kẻ khốn khổ ngủ trên sàn, đại tiểu tiện ngay bên ngoài cửa,
người nọ dẫm vào phân người kia. Đói khát, họ phải đào rễ củ và hái rau
dại về ăn. Cái sự thật tàn nhẫn này bị vùi trong câm lặng. Cho đến đầu
thế kỷ XXI, mới có vài nhà báo Pháp lên tiếng. Sau đó, Bernard Kouchner,
vốn là một ngôi sao cánh tả nhưng sau thất bại của Ségolen Royal trong
cuộc tranh cử 2007, đã nhận lời làm bộ trưởng bộ ngoại giao cho chính
phủ Sarkozy mới chính thức lên tiếng xin lỗi vì: “Nước Pháp đã đối xử
với những người lính thợ Việt Nam như đối với súc vật.”
Trong thực tiễn, nước Pháp đã đối xử với đám lính thợ Việt Nam còn tệ
hơn súc vật bởi khi cưỡng chế thanh niên Việt Nam sang Pháp, họ dồn đám
người này xuống hầm tầu còn tầng trên, thoáng mát hơn thì để dành cho…
những con bò. Cái kinh nghiệm tồi tệ ấy được cấy trong tim như một quá
khứ sầu thảm, cộng đồng người Việt không thể tránh khỏi mặc cảm của
những kẻ vừa là dân nhập cư, vừa mang nhãn hiệu “Được lôi ra từ vùng đất
thuộc địa”. Thế nên, cuộc sống tinh thần của họ dường như đột ngột khởi
sắc, bừng bừng ánh sáng khi cuộc chiến tranh Việt-Mỹ xẩy ra. Tại sao?
Dễ hiểu thôi, tinh thần „Bài Mỹ“ là chất xi-măng gắn kết một số đông
quốc gia trên thế giới, không chỉ các nước thuộc phe Xã hội chủ nghĩa
nhưng ngay cả các nước phương Tây. Hành vi của nước Mỹ không chỉ gợi lên
lòng căm thù nhưng kèm theo đó cả sự sợ hãi. Nếu có tiền lệ một nước
nhược tiểu bị Mỹ chà nát thì sẽ đến lượt các nước khác theo thành ngữ,
“Không bao giờ có lần thứ nhất, lần thứ hai mà lại không có lần thứ ba”.
Vả chăng, về mặt lý, cuộc chiến này không thể biện minh, “Không một người Việt Nam nào mang bom sang giết người Mỹ.”
Dù cộng sản hay không cộng sản thì sự thực là không có một người Việt
Nam nào cầm dao hoặc cầm súng sang tận nước Mỹ để giết một người Mỹ,
hoặc ngay đến một con bò trong trang trại Mỹ cũng không.
Vì thế, lương tâm nước Mỹ phải thức tỉnh. Các vụ biểu tình phản đối
chiến tranh trước toà Nhà Trắng của Mỹ điệp với các cuộc biểu tình trước
sứ quán Mỹ tại các nước khác. Tiếng hát và ngọn lửa tự thiêu của trí
thức Mỹ đốt nóng cả châu Mỹ La-tinh và châu Âu.
Vào thời điểm ấy, người Việt Nam nhập cư chống chiến tranh được hưởng
một sự ưu đãi vô tiền khoáng hậu. Đi đến đâu họ cũng được thăm hỏi,
giúp đỡ, được coi là người của “một dân tộc anh hùng”. Và, trên các diễn
đàn chống chiến tranh, đại diện của “tổ chức Việt kiều yêu nước” được
xuất hiện bên cạnh những nhân vật quan trọng bản xứ mà nếu không nhờ ân
sủng của cuộc chiến này, không bao giờ họ có cơ hội và có tư thế tiếp
xúc. Để ví von, có thể nói rằng: Những con chim vốn nép mình trong bóng
tối nhờ ánh đạn lửa mà được nhô đầu ra và há mỏ cất tiếng kêu.
Thế nên, họ cần cuộc chiến tranh Việt-Mỹ.
Lòng ích kỷ, cái kiêu ngã của con người quả là vô giới hạn. Những kẻ
sống ở một phương trời, cần máu đồng bào phải đổ ở một phương trời khác
để tô điểm cho cuộc sống tinh thần của chính mình.
Chiến tranh thật đẹp khi nó được tạo bằng máu xương kẻ khác!
Từ đây, tôi nghi ngờ hai từ “yêu nước”. Phía sau danh từ này có vô
vàn tâm trạng, có vô số động cơ, hoặc xác thực, hoặc ngầm ẩn, hoặc có ý
thức, hoặc vô thức.
Danh từ nào cũng lập lờ và cũng có khả năng phản lại nghĩa chính thống.
Như thế, giữa người Việt với người Việt cũng bị chia cách bởi những
con sông vô hình. Chắc chắn cũng còn khá lâu mới bắc được cầu qua những
con sông ấy.
Chiến tranh Việt-Mỹ đã qua, nhưng sau đó không lâu cái tên Việt Nam
lại dội lên trên các kênh thông tin quốc tế. Lần này, là một thứ ồn ào
dơ dáy. Chẳng còn là người anh hùng bé nhỏ dám đương đầu với đế quốc Mỹ
mà là tác giả của Khổ nạn Thuyền nhân. Ở châu Âu, phái đoàn Việt Nam
không còn được chào đón bằng cờ và hoa mà bằng cà chua và trứng thối.
Tôi nhớ rằng lần đi châu Âu, ông Võ Văn Kiệt đã hứng trọn một quả trứng
thối vào giữa mặt còn đến lượt ông Phan Văn Khải thì thoát nạn nhờ sự bố
trí, dàn cảnh công phu của cảnh sát Pháp. Sự đời vốn đổi thay như các
lớp tuồng. Điều khốn khổ cho người Việt Nam là dường như họ chỉ được
biết đến trong các tình huống đau khổ. Kể từ khi làn sóng “Thuyền nhân”
dịu đi, Việt Nam gần như chẳng còn gì để nhớ. Cứ nghe đài phương Tây thì
biết, người ta chỉ nhắc tới hai từ Việt Nam khi nhắc tới cuộc chiến
tranh Việt-Mỹ, bởi rất nhiều trí thức phương Tây, đặc biệt là các văn
nghệ sĩ đã tham gia vào phong trào chống chiến tranh và tuổi trẻ của họ
gắn bó với những kỷ niệm của một thời sôi động. Tuy nhiên, ngay cả những
người kiên nhẫn nhất và hiểu biết Việt Nam nhiều nhất cũng chưa dám quả
quyết rằng họ nắm được sự thực về cuộc chiến tranh này. Điều đó, quá
khó khăn.
Một lần, một nhà văn Pháp hỏi tôi:
- Cái gì tạo nên sức mạnh của chúng mày trong cuộc chiến tranh Việt-Mỹ?
Tôi đáp:
- Một nửa là thói quen của hàng ngàn năm chống xâm lược. Nửa kia là sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân.
Anh bạn chưng hửng:
- Mày không đùa đấy chứ? Ai có thể tin nổi một thứ lý thuyết quái gở như thế.
Tôi cười:
- Rất nhiều thứ quái gở ở phương Tây lại là sự thực đơn giản ở phương Đông. Và ngược lại.
Bây giờ, tôi xin giải thích “thứ lý thuyết quái gở” này.
Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ được đảng cộng sản phát động với lời tuyên bố: Đánh đuổi quân xâm lược Mỹ.
Năm 1964, tôi mười bẩy tuổi. Vào tuổi ấy, tất thảy thanh niên ở miền
Bắc không có quyền nghe đài nước ngoài, không có ti-vi, không có máy
quay đĩa, không có bất cứ nguồn thông tin nào ngoài báo chí cộng sản và
đài phát thanh trung ương. Lần đầu tiên, tôi được nghe những bài hát
nước ngoài là năm tôi mười sáu tuổi. Mùa hè năm 1963, anh họ tôi là
phiên dịch tiếng Nga dẫn tôi cùng đứa em trai đến nhà ông chuyên gia mỏ
thiếc Tĩnh Túc ở Hà Nội. Ông bà ấy đón tiếp rất tử tế, ngoài việc chiêu
đãi bánh ngọt và nước trà chanh, còn mở máy quay đĩa cho chúng tôi nghe.
Cảm giác của tôi lúc đó là choáng váng, như muốn chết. Đó là cảm giác
thật sự khi con người lạc vào một thế giới mà họ vừa cảm thấy ngây ngất
vừa cảm thấy như ngạt thở. Đĩa nhạc đó là của Roberto… (không nhớ họ),
một giọng ca Ý tuyệt diệu nhưng chết trẻ. Những bài hát tôi nghe là các
bài nổi tiếng cổ truyền: Ave Maria, Santa Lucia, Paloma, Sérénade,
Histoire d’amour, Besame Mucho…
Ra khỏi cửa nhà ông chuyên gia Nga nọ, tôi bước đi loạng choạng. Lần
đầu tiên, tôi hiểu rằng cuộc sống của chúng tôi là cuộc sống của những
kẻ bị nhốt dưới hầm. Những bài hát kia là một thứ ánh sáng mà lần đầu
tiên tôi được thấy. Ánh sáng đó rọi từ một thế giới khác, hoàn toàn ở
bên ngoài chúng tôi. Kể lại chuyện này, để hậu thế nhớ rằng, thời đại
của chúng tôi là thời đại của một thứ chủ nghĩa ngu dân triệt để. Một
thứ chủ nghĩa ngu dân tàn bạo, nó buộc con người sống như bầy súc vật
trong một hàng rào được xây nên bằng đói khát, hà hiếp và tối tăm.
Khi con người bị điều khiển cùng một lần bằng tiếng gào réo của dạ
dầy và cái bỏng rát của roi vọt thì họ không thể là người theo nghĩa
thực sự. Chủ nghĩa ngu dân là thứ lá chắn mắt ngựa, để con vật chỉ được
quyền chạy theo chiều mà ông chủ ra lệnh. Khi tất cả những con ngựa đều
chạy theo một hướng, ắt chúng tạo ra sức mạnh của “bầy chiến mã”, nhất
là khi, trong máu chúng đã cấy sẵn chất kích thích cổ truyền “chống xâm
lăng”.
Với lũ trẻ là chúng tôi thời ấy, danh từ Xâm lăng dùng để chỉ: quân
Nguyên, quân Minh, quân Thanh, và bây giờ là quân Mỹ. Danh từ ấy đồng
nghĩa với Tô Định, Mã Viện, Thoát Hoan… Tóm lại, Mỹ là lũ giặc phương
Bắc nhưng mũi lõ, mắt xanh, tóc vàng.
Ngôn ngữ vốn là một nhà tù, mà chúng tôi không có điều kiện để tiếp
cận với các nguồn thông tin khác, các ngôn ngữ khác, nên hiển nhiên
chúng tôi là đám tù binh ngoan ngoãn sống trong nhà tù ấy, đinh ninh
rằng mình ra đi là để bảo vệ non sông.
Bởi vì, tổ tiên chúng tôi đã quen chết hàng ngàn năm để chống lại
những kẻ thù mạnh hơn họ bội phần, chúng tôi cũng sẵn sàng ra chiến
trường chống quân xâm lược Mỹ theo đúng cách thức ấy.
Đó là lý do tôi nói, “sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân”.
Dương Thu Hương
4/7/2014
4/7/2014