Baron Trịnh
Trên 2.000 năm phát triển và mở mang bờ cõi, An-nam từ một vùng đất
cỏn con của xứ Giao Chỉ đã tiến hành hai cuộc Nam tiến và Tây tiến vĩ
đại, để đến cuối thế kỷ XVII hình thành nên diện mạo cong cong hình chữ S
từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau như ngày nay.
Trong công cuộc mở mang đó, thượng tầng An-nam đã áp dụng mô hình
quản trị địa phương theo văn hóa làng xã dựa trên chủ thuyết của Khổng
Khâu. Có nghĩa, tính họ tộc, tính cộng đồng và phong tục tập quán được
duy trì tối đa dựa trên những chuẩn mực về giá trị gia đình và lễ nghĩa.
An-nam thường có câu: “Phép vua thua lệ làng”. Thượng tầng thường
dung túng cho cái “lệ” đấy để tiện quản lý, vì họ nắm đàng chuôi quyền
bổ nhiệm người đứng đầu. Chính vì thế, hoạt động chính trị - xã hội
trong các làng xã là sự cạnh tranh gay gắt giữa các dòng họ để giữ các
vị trí quyền lực.
Để tăng sức mạnh trong cuộc cạnh tranh và duy trì quyền lực này. Mối
quan hệ họ hàng được sử dụng triệt để. Những kẻ có quyền lực sẽ xây
dựng vây cánh của mình dựa trên mối quan hệ họ hàng. Con em cháu chắt
trong họ được gây dựng để nắm những vị trí quan trọng và có tính kế
thừa. Chính vì vậy An-nam có câu tục ngữ: “Một người làm quan, cả họ
được nhờ”.
Người làm quan phải tuân theo luật lệ của dòng họ, phải kính trọng bề
trên cho dù họ có là bần nông thối tai khai bẹn. Đổi lại, họ được dòng
họ trọng vọng, là niềm tự hào của dòng họ, là cái phao để những người
trong dòng họ bám vào nhờ vả, hay tự AQ với những “giấc mơ con” chưa bao
giờ thành hiện thực. Câu tục ngữ: “Thấy người sang bắt quàng làm họ”
cũng xuất phát từ mối quan hệ này.
Những dòng họ yếu hơn thì liên kết với nhau để âm mưu lật đổ dòng họ
đang nắm giữ quyền lực. Và cuộc chiến quyền lực giữa các dòng họ âm ỉ,
kéo dài, không bao giờ chấm dứt từ đời này qua đời khác, từ triều đại
này qua triều đại khác.
Ngay cả thượng tầng trung ương tại các thị thành cũng bị ảnh hưởng
sâu sắc tư duy quan lại theo văn hóa làng xã. Mỗi khi có binh biến hay
thay đổi triều đại, con vua cháu chúa, con cái quan lại đại thần,… đều
chạy trốn hoặc bị lưu đày về các vùng sâu, vùng xa hoặc đi khai phá vùng
đất mới. Ở đó, họ bị ảnh hưởng sâu sắc bởi văn hóa làng xã, và sử dụng
mối quan hệ dòng họ như một cách để duy trì và phát triển, thậm chí phục
thù. Thế nên, đến khi họ vươn ra được thị thành, hoặc giành lại được
gianh sơn, thì tư duy củng cố quyền lực theo văn hóa làng xã và mô hình
nhà nước Khổng giáo đã hằn sâu trong đầu óc họ.
An-nam là một dân tộc không có tính kiên trì, hay bảo thủ, hay nghi
ngờ và lá mặt lá trái. Vì vậy họ rất hay lừa người khác và rất sợ bị
người khác lừa, bị người khác hạ bệ,… thậm chí sợ cả việc bị nói xấu sau
lưng. Một sự suy diễn và sợ hãi một cách rất đàn bà của một dân tộc âm
tính. Thế nên khi một người làm quan, họ sẽ xây dựng vây cánh để củng cố
quyền lực, dĩ nhiên sự tin tưởng nhất là con em cháu chắt trong gia
đình và dòng họ.
Quan lại An-nam luôn muốn quyền lực được cha truyền con nối. Vì thế
họ luôn có tư duy dọn sẵn đường đời cho con cái, và cho cả cháu chắt có
năng lực trong dòng họ. Câu tục ngữ: “Nhất con nhì cháu” là thế. Và họ
bằng mọi cách xây dựng một tường thành vững chắc để con cháu họ có thể
bước lên một cách dễ dàng với sự hậu thuẫn và ủng hộ tối đa của vây cánh
họ tạo dựng.
Một đặc tính không thể xóa bỏ của dân An-nam là tư tưởng kỳ hào quan
lại. Khi có điều kiện, tính kỳ hào của họ trỗi dậy như một sự khát
khao, một sự thỏa mãn. Mục tiêu trong đời của dân An-nam là phải được
làm quan. Đi học cũng để làm quan, kiếm tiền cũng để làm quan. Cung quan
lộc như ám ảnh cả cuộc đời của họ.
Khi mô hình nhà nước phong kiến bị sụp đổ, qua một thời gian thăng
trầm. An-nam đã và đang xây dựng mô hình nhà nước XHCN. Tuy nhiên, phần
lớn những con người nằm trong hệ thống quản lý của nhà nước này vẫn mang
nặng trong đầu tư duy làng xã và tư tưởng của một nhà nước Khổng giáo.
Nhất là những thành phần được làm quan do chủ nghĩa lý lịch.
Thế nên một bộ phận không nhỏ những người làm quan, cho dù nắm giữ
vị trí cao, nhưng tư duy lại là quan làng, quan xã của chế độ phong kiến
lạc hậu và thối nát. Và họ áp dụng triệt để cách làm quan một cách rất
làng xã. Nghĩa là phải lấy họ hàng làm gốc, làm vây cánh. Phải gây dựng
cho anh em, con cháu trong dòng họ.
Bên cạnh đó, khi đã đặt chân vào quan trường, trong đầu họ luôn luôn
mặc định họ lúc nào cũng là quan, kể cả khi không còn quyền lực vẫn
khệnh khạng như quan. Và họ luôn bị ám ảnh quyền lực đến mức luôn nghĩ
mưu tính kế để leo cao, leo sâu trong quan trường. Nếu không được thì
cũng phải giữ chặt, giữ lâu dài ghế quan mà họ đang có. Và việc xây dựng
vây cánh, đưa con cái người thân vào để củng cố quyền lực là cách thức
được lựa chọn và tận dụng triệt để.
Xét một cách toàn diện về bản chất thì thấy, quan trường ngày nay
chả khác gì ngày xưa, cũng chỉ là bình mới rượu cũ mà thôi. Đấy chính là
lý do tại sao hiện nay, khi phần lớn đại đồng thế giới tiến tới một xã
hội văn minh hiện đại, thì An-nam vẫn loay hoay trong cái ao làng như
thời cuối thế kỷ XIX.
Và đấy cũng là lý do tại sao cần lao An-nam vẫn chưa thể ngẩng mặt
lên theo đúng nghĩa với mỹ từ “công dân hiện đại” được. Cũng như chủ
nghĩa COCC vẫn là lá bài quan trọng trong chiến lược duy trì quyền lực
của hệ thống chính trị An-nam hiện tại.
© 2014 Baron Trịnh
Nguồn hình ảnh: Sưu tầm trên internet.