Cả 2 lần biểu tình ở Ba Lan, khi những bài tường thuật được đưa lên mạng,
người viết cũng như Ban biên tập Đàn Chim Việt hứng trọn những loạt
gạch đá của độc giả. Độc giả ở đây có lẽ đa phần sinh sống ở Mỹ và không
rõ họ đã lần nào đặt chân tới Đông Âu hay chưa và có hiểu gì về cộng
đồng người Việt ở đây hay không.
Đông Âu nói chung và Ba Lan nói riêng là sân sau của chế độ cộng sản
Hà Nội. Theo một số nhận xét của ngay chính những người trong cuộc, thậm
chí họ còn “đỏ” hơn cả những người đang sinh sống tại Việt Nam. Trong
những năm qua, trong lúc ở quốc nội, ngày càng nhiều người, nhất là
những người trẻ dấn thân cho dân chủ, cho nhân quyền, thì ở cộng đồng
chừng vài trăm ngàn người ở Đông Âu này, sự chuyển động là rất ít, là
không đáng kể. Trong lúc ở Việt Nam, hết lần này tới lần khác, dù bị đàn
áp bắt bớ, bị đánh đập, giam cầm, những người cổ vũ cho xã hội dân sự
vẫn xuống đường tuần hành phản đối Trung Quốc; thì ở Ba Lan – cái nôi
của cuộc cách mạng Nhung – những bước chân của người Việt mới rụt rè
xuống đường lần đầu tiên hôm 18/5 trong một cuộc biểu tình với tiêu chí ‘phi chính trị’.
Các nhóm dấn thân cho dân chủ ở các nước đông Âu- trải qua bao năm
hoạt động- vẫn chỉ đếm trên đầu ngón tay. Ba Lan có nhóm Đàn Chim Việt
và một vài người nữa tuy không thuộc nhóm này nhưng cũng hoạt động rất
tích cực. Séc có nhóm Văn Lang, cũng mới ra mắt vài năm nay, sau nhiều
năm hoạt động lẻ tẻ. Thành viên của Văn Lang đang dần tăng lên, nhưng
trên thực tế vẫn là nhóm rất nhỏ bé so với cả cộng đồng 60-70 ngàn người
Việt ở Séc.
Nga và Ucraina không nghe thấy bất kỳ một nhóm hoạt động dân chủ nào.
Một vài cá nhân đôi khi lên tiếng, nhưng những tiếng nói của họ hoàn
toàn lẻ loi, lạc lõng và khác biệt chính kiến ngay với chính cộng đồng
của mình.
Giữa 2 làn đạn
Điều trớ trêu là những nhóm nhỏ được cho là tiến bộ này bị cả 2 phía,
trong nhiều năm qua, trù dập, chửi bới đến nỗi nhiều người mất hết kiên
nhẫn. Phía nhà nước Việt Nam thì quá dễ hiểu, họ có trong tay quyền
sinh sát. Đơn giản và hiệu quả nhất là không cho về Việt Nam.
Khác với những di dân ở Mỹ, hầu hết người Việt Đông Âu đều thuộc dạng
‘chân trong chân ngoài’, đa số không hoặc chưa muốn chọn mảnh đất này
làm nơi ăn đời ở kiếp. Phần lớn, bằng lao động của mình, gom góp tiền
bạc gửi về Việt Nam, mua nhà mua cửa, đầu tư vào nhiều lĩnh vực kinh
doanh, sản xuất khác nhau để một ngày nào đó khi cuộc sống ở nước ngoài
khó khăn thì té về; hoặc đơn giản trở về khi tuổi già, để sống những
ngày còn lại trên quê hương.
Chính vì nắm thóp được điều này, nên con bài ‘không cho về Việt Nam’
là rất hiệu nghiệm, ai cũng sợ rơi vào cuốn sổ đen này. Đa số còn cha mẹ
già, thậm chí vợ con gia đình ở Việt Nam và tài sản mà họ đã bao năm
tích cóp, gầy dựng.
Con bài khác nữa là không gia hạn hay cấp hộ chiếu Việt Nam cho những
đối tượng mà nhà nước không thích, không hoan nghênh. Điển hình cho
trường hợp này là Tôn Vân Anh và Đỗ Xuân Cang.
Cả 2 đều bị từ chối gia hạn hộ chiếu dù họ chưa bao giờ bị tước quyền
công dân Việt Nam. Không có giấy tờ, biến thành người vô tổ quốc sẽ
khiến cho công việc làm ăn cũng như cuộc sống riêng tư của họ gặp nhiều
khó khăn.
Một câu hỏi sẽ được đặt ra, tại sao mấy người đó bị trù dập như vậy,
trong khi ở Mỹ, ở Úc người ta chống cộng ầm ầm, chửi cộng như hát hay và
vẫn đi về Việt Nam thoải mái. Đó là điều khác biệt. Người ta không thể
ngăn chặn một cộng đồng với hàng trăm ngàn người chống cộng, chống triền
miên từ năm này qua năm khác, thập niên này qua thập niên khác; nhưng
lại tiêu diệt những mầm mống ở một cộng đồng vốn luôn được coi như sân
sau của chế độ.
Sự trù dập này chủ yếu mang tính răn đe cộng đồng, răn đe một đám
đông dường như chưa bao giờ thoát ra khỏi sự sự hãi và lệ thuộc.
Không ‘tị nạn cộng sản’
Nhiều người ở Mỹ đã ngộ nhận rằng, cứ cộng đồng hải ngoại có nghĩa là
tị nạn cộng sản. Điều đó có thể đúng ở đâu đó, nhưng dứt khoát không
đúng ở đây – Ba Lan hay Đông Âu. Mặc dù chưa có một thống kê mang tính
xã hội học nào liên quan tới nguyên nhân tị nạn của cộng đồng Việt Nam
tại Ba Lan nhưng qua những tiếp xúc cá nhân, thì đại đa số không thừa
nhận sự ‘tị nạn cộng sản”hay ‘tị nạn chính trị’.
Đặc điểm nổi trội của cộng đồng ở đây là sinh trưởng ở miền Bắc, đa
phần là con cháu cộng sản. Trong gia đình mỗi người, không bố mẹ thì ông
bà hay cô dì chú bác đều là đảng viên, thậm chí đang nắm giữ những vị
trí nào đó trong bộ máy chính quyền hiện tại. Họ có nhiều ràng buộc với
chế độ, dù tình cảm có thể không còn. Sự chán ghét chế độ là có, thậm
chí có nhiều trong những câu chuyện bên bàn trà, chén nước nhưng ít ai
dám công khai biểu lộ quan điểm của mình và càng ít hơn nữa những người
dám công khai đương đầu với chế độ Hà Nội.
Một điều đáng nói nữa, đây là cộng động cờ đỏ, nơi không những chính
họ mà ngay cả ông bà hay bố mẹ họ có khi cũng chưa một lần nhìn thấy lá
cờ nào khác biểu tượng cho quốc gia Việt Nam. Có những người thậm chí
không biết tới sự có mặt của cờ vàng trong lịch sử dân tộc.
Bạn có thể nhảy dựng lên, có thể chửi thề hay văng tục, nhưng đó là
chuyện của bạn. Thực tế cộng đồng ở đây là như vậy. Đại sứ quán có điện thờ bác Hồ,
có lễ hô thần nhập tượng cho Bác với hàng chục vị áo cao mũ dài trong
cộng đồng (trong số đó có những tiến sĩ đã ăn học và sinh sống ở Ba Lan
tới 30 năm trời) khấn vái xì xụp. Chùa cũng có tượng đồng của bác Hồ và
đâu đó trong các gia đình, vẫn có người treo ảnh bác. Ở một khu chợ bán
lẻ nọ, có một ông ngày nào cũng thế, khi mở quầy bán hàng là thắp hương
khấn vái, ông khấn ảnh bác Hồ. Mặc dù Ba Lan cấm kỵ chủ nghĩa cộng sản
nhưng một số người Việt ở đây vẫn sinh hoạt đảng, đảng viên vẫn được kết
nạp hàng năm.
Với khả năng hạn chế về ngôn ngữ, kênh truyền thông chính của không
ít bà con vẫn là VTV4, VTV1 và không phải ai cũng hứng khởi với mấy
trang web lề trái luôn thường trực những ý kiến chửi bới tục tĩu.
Với một cộng đồng như vậy, việc sử dụng cờ đỏ gần như là lẽ đương
nhiên. Hạn chế bớt mầu đỏ, pha thêm các sắc mầu khác, không hát các bài
hát cách mạng, không đem theo ảnh bác trong đoàn biểu tình đã là một cố
gắng lớn của những người tổ chức rồi. Và, công bằng mà nói, cuộc biểu
tình ở Ba Lan có nhiều sắc xanh nhất châu Âu, không đỏ lòe và hừng hực
‘khí thế cách mạng”như một số nơi khác.
Những người vận động xã hội phải vận động trên cơ sở xã hội mà họ
đang có, ở chính cộng đồng nơi họ đang sống chứ không phải theo chủ quan
duy ý chí của mình. Bản thân các thành viên tổ chức cũng như một số
người khác, khi vận động một cuộc xuống đường, họ đều biết rõ chuyện “cờ
đỏ 1 sao, cờ đỏ 5 sao”, nguồn gốc “tỉnh Phúc Kiến” hay công hàm 1958 nó
ngang dọc ra sao – mà không cần nhờ tới bất cứ sự dậy khôn nào – nhưng
họ buộc phải đứng trước sự lựa chọn, hoặc biểu tình 1 mình, hoặc biểu
tình cùng cộng đồng.
Cũng cần phải nói rằng, con số ‘giác ngộ’ trong cộng đồng không phải
là ít qua sự sàng lọc của 2 lần biểu tình vừa qua, nhưng nó chưa đủ lớn
để thay đổi cái nhìn của cả cộng đồng.
Thành công của cả 2 lần biểu tình là giúp cho một cộng đồng vốn thụ
động và còn e ngại, sợ hãi, tham gia vào một hoạt động xã hội đặc trưng
của chế độ dân chủ, thực thi quyền cơ bản của mình là quyền biểu tình.
Nó giúp cộng đồng bước thêm 1 bước về phía trước và góp phần cải thiện
hình ảnh của 1 cộng đồng khép kín trong con mắt người bản xứ.
© Đàn Chim Việt