Phạm Chí Dũng
Tiền không là tất cả
Người Việt hải ngoại có thể làm gì cho dân tộc?
Một câu hỏi quá khó nhưng lại quá dễ để dẫn dụ. Những quan chức với
khuôn mặt mỡ màng như Thứ Trưởng Ngoại Giao Việt Nam Nguyễn Thanh Sơn,
trong vài lần xuất cảnh ra hải ngoại làm công tác “kiều vận,” đã không
bao giờ lãng quên năng khiếu dẫn độ hơn một chục tỷ đô la kiều hối hàng
năm từ 4 triệu rưỡi “kiều bào ta.”
Nhưng lại vẫn là nỗi đau đáu ngày càng tha thiết của phần lớn trong
số 4 triệu rưỡi con người trên: “Chúng ta có thể làm gì để cứu nguy hiện
tình đất nước?” Với nhiều người trong số họ và hoàn toàn dị biệt với
nhãn quan của giới lãnh đạo Hà Nội, tiền không phải là tất cả.
Tiền không là tất cả, cho dù chính tiền mới là ưu thế mạnh mẽ nhất
của cộng động người Việt phủ khắp các quốc gia phát triển như Hoa Kỳ,
Canada, Úc, Ðức, Pháp và cả Ðông Âu, Bắc Âu..., so với tình cảnh nghèo
rớt mùng tơi của đại đa số thành viên thuộc phong trào đấu tranh lớn lao
đòi dân chủ và nhân quyền quốc nội.
Vậy là cùng với làn sóng kiều hối và đầu tư về nước, bà con Việt kiều
cũng bằng nhiều cách chuyển tiền cho những hoàn cảnh khó khăn của anh
em dân chủ quốc nội. Hoạt động này chủ yếu mang tính tương thân tương ái
chứ không nhằm mục tiêu “lật đổ chế độ” như chính quyền Việt Nam vẫn
thường nghi ngờ một cách quá thiên về cảm tính.
Nhưng có lẽ chỉ sau thời điểm năm 2007, khi Việt Nam chính thức được
chấp tham gia vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) và mối quan hệ
Việt-Mỹ bắt đầu khái thác chiều sâu, sự hỗ trợ về tài chính của người
Việt hải ngoại mới chuyển hóa hơn cho các nhóm dân sự độc lập đang manh
nha hình thành trong nước. Một trong những tiêu điểm của xã hội dân sự
vào thời gian đó là Khối 8406.
Quy luật tăng trưởng xã hội dân sự đã kéo theo gia tốc ủng hộ của
người Việt hải ngoại. Ðặc biệt từ đầu năm 2013 khi một phong trào dân sự
chưa từng thấy ở Việt Nam là “Kiến Nghị 72” phát lộ, các nhóm hoạt động
dân chủ và nhân quyền ở hải ngoại đã như bừng tỉnh. Cùng với xu hướng
tái lập quan hệ Việt-Mỹ, mỗi tháng người ta đều nhận ra rằng tình thế
chính trị đang dần chuyển biến. Thậm chí những người Việt hải ngoại lạc
quan nhất còn cho rằng đang và sẽ là một vận hội mới cho dân tộc.
Trở lại với sứ mệnh “kiều hối” và “hòa hợp” của Thứ Trưởng Ngoại Giao
Nguyễn Thanh Sơn và một số quan chức Việt Nam. Sau những chuyến kiều
vận chính thức lẫn không chính thức của họ ở hải ngoại, một số Việt kiều
nằm trong “danh sách đen” bỗng dưng được nhà nước Việt Nam chấp thuận
cho về thăm quê hương. Tuy vẫn bị giám sát khá chặt chẽ bởi các cơ quan
an ninh từ cấp trung ương đến địa phương, những Việt kiều bất đồng chính
kiến nhưng có vẻ may mắn như thế đã không còn cảm nhận bầu không khí
quá tù túng như trước đây. Và nếu Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế lần đầu tiên từ
năm 1975 được chấp thuận đặt chân đến lãnh thổ Việt Nam vào đầu năm
2013, thậm chí còn được đặc cách thăm hỏi một số tù nhân lương tâm, hẳn
người ta có thể hình dung ra một ít cơ hội đang hé mở.
Lẽ đương nhiên, cơ hội và vận hội càng lớn thì tiền chuyển về càng
nhiều và càng có mục đích hữu dụng hơn. Tuy nhiên như đã đề cập, tiền
không phải là tất cả. Kể từ Tháng Bảy, 2013 khi diễn ra sự kiện ông
Trương Tấn Sang - chủ tịch nước - mang cả một bản sao lá thư của ông Hồ
Chí Minh gửi Tổng Thống Mỹ Harry Truman vào năm 1946 để trao cho Tổng
Thống hiện hữu Barak Obama, không khí giao thoa ngoài-trong càng xáo
động. Giới hoạt động dân chủ và nhân quyền hải ngoại càng có dịp để
nghiền ngẫm một cách sâu sắc hơn về việc đã đến lúc cần làm một số việc
nào đó để khích lệ cho phong trào dân chủ quốc nội, hơn là chỉ có tiền.
Ðối thoại và tranh biện
Quả thật, quy luật phát triển ảnh hưởng của xã hội dân sự bằng hiệu
ứng truyền thông trên thế giới vẫn luôn có thể áp dụng cho Việt Nam. Nếu
2011 có thể được coi là thời điểm truyền thông xã hội, hay còn gọi nôm
na là “lề trái,” bắt đầu phát triển ở Việt Nam, cho đến nay hệ thống
truyền thông này đã nghiễm nhiên trở thành phương tiện chủ công chuyển
tải thông tin từ trong nước ra quốc tế. Những điểm đến thường xuyên của
thông tin dân chủ và nhân quyền trong nước vẫn là các đài Việt ngữ quốc
tế như BBC, VOA, RFA, RFI. Và tuy cho tới nay hệ thống báo chí người
Việt hải ngoại chưa thực sự đóng một vai trò đủ lớn trong mối quan hệ
với truyền thông xã hội trong nước, nhưng một số tiền đề liên kế thông
tin cũng đã được khởi động.
Trên cả phương thức biểu tình, hoạt động nối kết truyền thông có lẽ
mới mang lại một tinh thần mặc khải có sức lan tỏa hữu hiệu nhất. Hình
thúc hội luận, trao đổi giữa hải ngoại và trong nước ngày càng phổ biến
hơn. Tháng Sáu, 2014, lần đầu tiên một giáo sư có uy tín của Học Viện
Quốc Phòng Úc là Carl Thayer đã nhận lời tham gia chương trình hội luận
với một nhân vật bất đồng chính kiến trong nước và với một đài người
Việt hải ngoại là SBTN Úc Châu. Lẽ đương nhiên, sự xuất hiện đồng thời
và có thể đồng cảm giữa giới học giả tên tuổi quốc tế với những nhân vật
đấu tranh có tính tư tưởng của quốc nội sẽ dần mang lại một tư thế đồng
đẳng cho phong trào dân chủ trong nước với chính thể Hà Nội.
Lồng trong xu hướng một số diễn đàn tự do ngôn luận trong nước đang
chuyển từ online sang offline theo cách “đưa nghị quyết vào đời sống,”
những cuộc tọa đàm và hội luận của người Việt ở các nước với giới dân
chủ quốc nội có lẽ là hình thức thích hợp nhất mà giới truyền thông hải
ngoại có thể chung tay. Còn hơn cả thế, trong một xã hội dân sự ngày
càng mở rộng và ranh giới giữa “lề phải” và “lề dân” càng lúc càng phải
mờ nhạt, đã dần xuất hiện một số nhân vật trí thức và thậm chí cả chính
khách đương chức trong giới cầm quyền Việt Nam tỏ ra muốn “đối thoại”
với truyền thông quốc tế và có thể cả truyền thông hải ngoại. Dĩ nhiên,
đây chính là một cơ hội không chỉ về mặt thông tin mà còn nhằm xúc tác
cho mục tiêu “xích lại gần nhau” trên tinh thần đối thoại và tranh biện
thật sự.
Và đương nhiên, chính những hoạt động tạo tranh luận về thông tin
trên sẽ hỗ trợ đắc lực hơn cho hành động điều trần do các nhóm người
Việt hải ngoại liên tiếp tổ chức ở các nghị viện Hoa Kỳ, Canada, Úc và
Châu Âu. Ai cũng biết rằng chính sách quốc tế vận sẽ không thể đạt hiệu
ứng trọn vẹn nếu giới vận đông quốc tế không chủ động tạo ra không khí
đối thoại và đặc biệt hướng tới đối thoại với giới quan chức nhà nước -
những người có thể chiếm khoảng 50% trong giới chức điều hành đang ít
nhiều đảo mắt tìm kế sinh lộ nơi phương Tây.
Cũng bởi chính trị Việt Nam có thể thay đổi, thậm chí đảo lộn chỉ trong vài ba năm nữa...