Phạm Đoan Trang chuyển ngữ và giới thiệu
Có lẽ rất ít người Việt Nam biết đến chi tiết sau đây, liên quan đến Công hàm Phạm Văn Đồng, mà học giả người Trung Quốc Li Jianwei (Lý Kiến Vĩ) công bố trong bài viết mới đây cho RSIS (Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam, trực thuộc ĐH Công nghệ Nanyang, Singapore). Đó là, vào năm 1977, trong một cuộc gặp với chủ tịch Trung Quốc (khi đó là phó thủ tướng) Lý Tiên Niệm, ông Phạm Văn Đồng đã nói: “Trong cuộc kháng chiến, tất nhiên chúng tôi phải đặt việc chiến đấu chống đế quốc Mỹ lên trên tất cả mọi thứ khác”.* * *
Chi tiết đó giờ đây đã được Li Jianwei mang ra sử dụng trong bài viết của bà, khẳng định Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc (!). Đây là một lập luận rất nguy hiểm cho việc bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam.
TRUNG QUỐC, VIỆT NAM VÀ HOÀNG SA: ĐÃ ĐẾN LÚC CÓ LỐI THOÁT?
Li Jianwei
Tóm tắt
Vụ đôi co kéo dài giữa Trung Quốc và Việt Nam xoay quanh giàn khoan
dầu HYSY 981 gây thiệt hại cho mối quan hệ giữa hai nước. Cần có sự khôn
khéo về ngoại giao, sao cho cả hai nước đều có thể điều chỉnh cách làm
của họ để đưa tình hình về trạng thái kiểm soát được.
Bình luận
Bất đồng giữa Trung Quốc và Việt Nam về giàn khoan dầu HYSY 981 kéo
dài tới nay đã được hơn 40 ngày (bài viết này đăng ngày 24/6 tại mục
Publications của RSIS – ND). Đã đến lúc cả hai bên – vốn kiểm soát thành
công những xung đột, mâu thuẫn nhạy cảm trong quá khứ – phải nghiêm túc
xem lại những thủ đoạn mà họ sử dụng sau sự cố 981.
Suy cho cùng, tranh chấp hiện nay là có hại cho quan hệ song phương,
và đó là điều mà chính phủ cả hai nước đều không muốn. Những căng thẳng
phát sinh từ tranh chấp cũng đang gây bất ổn cho khu vực Đông Nam Á.
Lập trường của Trung Quốc
Ngày 8/6/2014, Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra một tuyên bố, cùng với 5
tài liệu đi kèm, để làm rõ lập trường của họ với cộng đồng quốc tế về
một số vấn đề liên quan đến hoạt động của giàn khoan dầu HYSY 981.
Vào tháng 5/2014, giàn khoan dầu HYSY 981 của một công ty Trung Quốc
đã tiến hành khoan thăm dò trong vùng biển tiếp giáp với quần đảo Tây Sa
(Hoàng Sa). Giai đoạn 1 bắt đầu vào ngày 2/5 và giai đoạn 2 vào ngày
27/5. Hai địa điểm hoạt động nằm ở vị trí 17 hải lý tính từ đảo Trung
Kiến (Zhongjian, tên quốc tế là Triton, tức đảo Tri Tôn – ND) thuộc quần
đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa – ND) và tính từ đường cơ sở của lãnh hải của
quần đảo Tây Sa, trong khi đó, cách bờ biển đất liền Việt Nam tới xấp xỉ
133-156 hải lý (tức là 239-280 km – ND).
Hoạt động của giàn khoan là sự tiếp tục quá trình thăm dò khai thác
thường lệ của công ty Trung Quốc và diễn ra hoàn toàn trong vùng biển
thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc.
Nói về chủ quyền đối với quần đảo Tây Sa, Trung Quốc là nước đầu tiên
phát hiện, mở mang, khai thác và thực thi quyền tài phán trên nhóm đảo
này. Cho đến thời Bắc Tống (năm 960-1126 Công nguyên), nhà nước Trung
Quốc đã xác lập quyền tài phán đối với quần đảo Tây Sa từ trước, và đã
đưa hải quân đến tuần tra ở vùng biển này. Năm 1909, đô đốc Li Zhun (Lý
Chuẩn), Tư lệnh hải quân Quảng Đông thời nhà Thanh, còn dẫn đầu một đội
thanh tra đến quần đảo Tây Sa và tái khẳng định chủ quyền của Trung Quốc
ở đây bằng việc treo cờ và bắn súng chào trên đảo Vĩnh Hưng (Yongxing,
tên quốc tế Woody Island, tức là đảo Phú Lâm – ND).
Năm 1911, chính quyền nước Cộng hòa Trung Hoa (Trung Hoa Dân Quốc) ra
quyết định đặt quần đảo Tây Sa và vùng biển lân cận vào dưới quyền tài
phán của huyện Ya thuộc đảo Hải Nam.
Trong suốt thời gian Thế chiến II, Nhật Bản chiếm hữu quần đảo Tây
Sa. Sau Thế chiến, theo một loạt văn kiện quốc tế, chính quyền Trung
Quốc đã cử các quan chức cao cấp đến quần đảo Tây Sa này trên tàu quân
sự, vào tháng 11/1946, để cử hành nghi thức tiếp nhận đảo, và một bia đá
đã được dựng ở đây để kỷ niệm ngày Nhật trao trả đảo cho Trung Quốc.
Sau ngày thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1949,
quyền tài phán của Trung Quốc vẫn tiếp tục. Năm 1959, chính quyền Trung
Quốc thành lập Cơ quan Quản lý các quần đảo Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa
(tức là Hoàng Sa, bãi Macclesfield, và Trường Sa – ND).
Quần đảo Hoàng Sa (Paracel, Trung Quốc gọi là Xisha [Tây Sa]), bãi Macclesfield (Trung Quốc gọi là Zhongsa [Trung Sa]), quần đảo Trường Sa (Spratly, Trung Quốc gọi là Nansha [Nam Sa]) trên Biển Đông.
Công hàm Phạm Văn Đồng
Trong các quan điểm về sự cố giàn khoan mới đây, một lần nữa, công
hàm năm 1958 của cựu thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng gửi cựu thủ tướng
Trung Quốc Chu Ân Lai lại được đưa ra. Trong công hàm, Thủ tướng Đồng
tuyên bố rằng “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Chính phủ nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ra ngày 4
tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết
định về lãnh hải của Trung Quốc” và “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy”.
“Quyết định ấy” là nói đến tuyên bố của Trung Quốc, ra ngày 4/9/1958.
Trong tuyên bố này, Trung Quốc thông báo “bề rộng của lãnh hải của nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sẽ là 12 hải lý” và “điều này áp dụng cho
toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm… quần đảo Tây
Sa”.
Có thể hiểu được là, các đại diện của phía Việt Nam đã cố gắng làm
giảm tầm quan trọng của công hàm Phạm Văn Đông và muốn đưa ra một lời
giải thích khác về việc tại sao công hàm này không làm lung lay yêu sách
chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Tây Sa. Tuy nhiên, có một sự
thực là trong một cuộc gặp vào năm 1977, chính ông Phạm Văn Đồng đã giải
thích cho một người khi đó là Phó Thủ tướng Trung Quốc, ông Lý Tiên
Niệm (Li Xiannian); và cái sự thực này quả thật đã làm suy yếu những lập
luận hiện nay của Việt Nam nhằm đánh lạc hướng nội dung của công hàm
Phạm Văn Đồng. Ấy là bởi vì trong cuộc gặp, ông Đồng có nói: “Nên hiểu
các tuyên bố của chúng ta, kể cả tuyên bố trong công hàm của tôi gửi Thủ
tướng Chu Ân Lai, như thế nào? Nên hiểu nó trong bối cảnh lịch sử của
thời đại”, và “trong cuộc kháng chiến, tất nhiên chúng tôi phải đặt việc
chiến đấu chống đế quốc Mỹ lên trên tất cả mọi thứ khác”.
Rõ ràng là ông Đồng đã công nhận mục đích của tuyên bố của ông về chủ
quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng lại đòi Trung Quốc
hiểu nó trong bối cảnh lịch sử. Lập luận này đi ngược với nguyên tắc
quốc tế “estoppels”, theo đó: Trong một tranh chấp cụ thể, tại một thời
điểm nào đó, nếu một bên có thỏa thuận/ nhất trí ngầm, hoặc công nhận
chủ quyền của một bên khác đối với một vùng lãnh thổ đang tranh chấp,
thì sự công nhận hoặc nhất trí đó có hiệu lực pháp lý.
Kết quả là, bên nào đã nhất trí hoặc đã công nhận chủ quyền đang
tranh cãi, thì sẽ không thể bác bỏ chủ quyền của bên kia đối với vùng
lãnh thổ đang tranh cãi, và phải tôn trọng quyền của bên kia. Ngoài ra,
việc Phạm Văn Đồng là thủ tướng của nước Việt Nam thống nhất từ ngày
thống nhất cho đến tận năm 1986 cũng là một thực tế làm suy yếu lập luận
của Việt Nam trong vấn đề chủ quyền này.
Một lưu ý tích cực
Trong một bài bình luận gần đây trên RSIS, nhan đề “Hoàng Sa 40 năm qua”,
tác giả – học giả Việt Nam, TS. Nguyễn Thị Lan Anh – có đề cập đến một
trường hợp phân định thành công biên giới trên biển, đó là hiệp định
giữa Trung Quốc và Việt Nam về Vịnh Bắc Bộ, năm 2000. Bà Lan Anh cho
rằng các nguyên tắc mà hai nước đã áp dụng trong vụ Vịnh Bắc Bộ cũng có
thể được vận dụng cho vùng biển giữa bờ biển đất liền Việt Nam và quần
đảo Hoàng Sa, mà trong đó có đảo Tri Tôn.
Chắc chắn là trong vụ phân định Vịnh Bắc Bộ, các nhà đàm phán của cả
hai nước đã tuân thủ các nguyên tắc của luật quốc tế, bao gồm cả Công
ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS), là tiến tới một thỏa thuận công bằng mà
cả hai bên đều chấp nhận được, có tính đến những yếu tố khác nhau có
liên quan. Biên giới trong Vịnh Bắc Bộ là biên giới hàng hải đầu tiên
của Trung Quốc, và cũng là biên giới trên biển đầu tiên giữa Trung Quốc
và Việt Nam. Điều này có ý nghĩa quan trọng cho những cuộc đàm phán
trong tương lai của họ về các phần khác trên Biển Đông.
Trung Quốc thừa nhận rằng vùng biển nằm giữa quần đảo Tây Sa và và bờ
biển đất liền Việt Nam hiện chưa được phân định, và cả hai nước đều có
quyền đòi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, căn cứ vào UNCLOS. Tuy
nhiên, Trung Quốc giữ quan điểm cho rằng vùng biển xung quanh đảo Tri
Tôn không phải là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam,
cho dù áp dụng nguyên tắc nào vào việc phân định biên giới trên biển đi
chăng nữa. Khoảng cách và vị trí địa lý chẳng có ý nghĩa gì cả.
Đề xuất hai nước ngồi vào bàn đàm phán trực tiếp là một đề xuất tích
cực và mang tính xây dựng. Trung Quốc sẽ đồng ý tham gia đàm phán trực
tiếp với Việt Nam, về việc phân định ranh giới hàng hải trong khu vực
nằm giữa bờ biển đất liền Việt Nam và quần đảo Tây Sa.
Nếu đạt được một giải pháp công bằng và hợp lý, thì điều đó sẽ góp
phần củng cố và thắt chặt quan hệ giữa hai nước, đồng thời cũng góp phần
quan trọng cho hòa bình và ổn định trên Biển Đông.
Bà Li Jianwei là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Biển, Viện
Quốc gia Nghiên cứu Biển Đông của Trung Quốc. Bài này được viết riêng
cho RSIS.