Giới trí thức đang lo rừng Việt Nam bị đem nhường cho người Trung Hoa khai thác hàng 50 năm; biển Việt Nam bị người Trung Hoa chiếm; nhiều người tìm cách ngăn cản không cho các công ty Trung Quốc mang người vào khai thác bô xít (bauxite) làm nguy hại môi trường sống, biến các cư xá công nhân thành những làng tự trị sống ngoài luật pháp nước Việt Nam.
Giới văn nghệ xôn xao về một cuốn phim Lý Công Uẩn “made in China!” Người Việt Nam nào cũng đau lòng khi nhân vụ Trung Quốc phản đối Nhật Bản bắt giữ một thuyền trưởng người Trung Hoa, báo chí nhắc cho các nước chung quanh biết chuyện Hải Quân Trung Quốc bắt ngư dân ngay trong hải phận nước Việt đưa về giam giữ ngay ở Hoàng Sa (mà họ đã chiếm của nước Việt Nam từ năm 1974), rồi đòi tiền chuộc. Nhiều người Việt còn lo nếu sang năm đại hội của đảng Cộng Sản bầu lên nhiều người có tinh thần độc lập đối với Trung Quốc thì không biết liệu họ có đánh nước mình hay không! Hay là họ sẽ xếp đặt trước cho chuyện đó không thể xẩy ra, để họ khỏi phải đánh mà vẫn thắng!
Từ hai ngàn năm nay, người Việt vẫn lo tự vệ trước sức mạnh bành trướng của người Hán. Nhưng chưa bao giờ mối lo đó lại đè nặng trên tâm tư người Việt như vậy. Mối lo càng lớn hơn vì Trung Quốc đang nỗ lực thay đổi để trở thành một cường quốc kinh tế đứng hạng nhì thế giới, mà trong một thế hệ nữa, Tổng sản lượng nội địa của một tỷ dân Trung Hoa sẽ vượt qua Hoa Kỳ để đứng hạng nhất. Trước viễn ảnh đó người Việt Nam nào không lo lắng?
Nhưng khi nhìn sang những nước chung quanh chúng ta phải tự hỏi tại sao các quốc gia khác trong vùng Á Ðông họ cũng lo về Trung Quốc nhưng không ai hoảng hốt lo sợ như nước mình? Hàn Quốc và Ðài Loan nằm sát bên Trung Quốc, như những con mèo nằm bên cạnh con cọp. Những quốc gia nhỏ khác trong vùng như Phi Luật Tân, Mã Lai Á, Indonesia, nhỏ bé đến như Singapore, họ đều ý thức về vai trò đang lên của Trung Quốc và biết họ phải làm gì; nhưng trong dư luận dân chúng họ vẫn bình tịnh không hoảng hốt trước sự bành trướng của cường quốc Trung Hoa như người Việt mình. Tại sao vậy?
Hãy nhìn vào hai nước Á Ðông láng giềng của Trung Quốc, gần không khác gì Việt Nam mà lại nhỏ hơn Việt Nam. Hàn Quốc đến giờ vẫn còn bị chia đôi. Nước họ đã từng bị đế quốc Trung Hoa đặt làm An Ðông Ðô Hộ Phủ vào thời gian mà nhà Ðường gọi nước ta là An Nam, bây giờ trong nước họ không ai báo động nhau về sự bành trướng của Hán tộc một cách hoảng hốt như người Việt! Tại sao Ðài Loan, hòn đảo vẫn bị coi là một tỉnh của Trung Quốc, họ không lo bị Trung Quốc lấn áp hay xâm chiếm mà còn mở rộng giao thương, trao đổi văn hóa, và mua thêm vũ khí của Mỹ để củng cố sức mạnh quân sự mặc dù bị Bắc Kinh công khai phản đối? Nước Việt Nam khác hai nước trên ở những điểm nào mà dân họ bình tĩnh, tự tin, còn dân mình thì lo sợ đến thế? Trả lời được câu hỏi này là biết được người Việt Nam phải làm gì để đứng vững trước mối đe dọa về sự bành trướng của Trung Quốc trong thế kỷ 21.
Lý do thứ nhất là kinh tế. Ðài Loan và Nam Hàn đang là những cường quốc kinh tế trong khu vực Á Ðông. Sản lượng bình quân ở Nam Hàn trên 24,000 đô la một đầu người, Ðài Loan trên 30,000 đô la, còn Trung Quốc chỉ có hơn 5,000 (Việt Nam bằng một nửa Trung Quốc, và đây là lối tính PPP, dựa theo mãi lực tương đối của người dân chứ không theo lối chỉ tính bằng đô la Mỹ). Dù tới khi tổng sản lượng nội địa của Trung Quốc tăng gấp ba lớn bằng GDP của Mỹ thì một người dân trung bình ở nước Ðại Hán vẫn còn nghèo, chưa bằng một phần ba người dân hai nước nhỏ láng giềng. Dân giầu thì nước mạnh, nhất là trong thời “thế giới hậu cộng sản” và kinh tế toàn cầu hóa bây giờ.
Sau khi chiến tranh lạnh đã chấm dứt, những quốc gia nhỏ không phải mang mối lo bị một cường quốc nào xâm chiếm nữa. Mỹ không có tham vọng chiếm đóng Iraq lâu dài cũng như Nga không dám đem quân vào các nước Georgia và Ukraine trước kia từng thuộc lãnh thổ Liên Xô. Trung Quốc dù có tăng sức mạnh quân sự gấp trăm lần cũng vẫn chưa đuổi kịp Mỹ; mà từ năm 1950 họ vẫn chưa dám đem quân sang đánh các hòn đảo Kim Môn và Mã Tổ, những đảo này gần bờ biển Phc Kiến hơn gần Ðài Loan, thì bây giờ họ càng phải dè dặt hơn.
Tuy Việt Nam và Trung Quốc vẫn còn do những đảng tự gọi là cộng sản cai trị, nhưng chúng ta thực sự đang sống trong một “thế giới hậu cộng sản” vì chủ nghĩa cộng sản đã bị vứt bỏ từ hai chục năm nay rồi, mặc dù ngoài miệng họ vẫn “mạo xưng” họ là cộng sản.
Nhưng trong “thế giới hậu cộng sản” này nền kinh tế của tất cả các nước đều liên hệ đến nhau. Tất cả các cường quốc đều muốn duy trì một tình trạng ổn định. Ðể yên tâm làm ăn. Mục tiêu của các quốc gia là nâng cao mức sống của người dân chứ không phải là thực hiện một chủ nghĩa hay một lý thuyết nào. Không hề có một “chủ nghĩa tư bản” như người cộng sản thường hô hoán. Kinh tế tư bản là một cách tổ chức xã hội cạnh tranh để sinh tồn theo luật tự nhiên; mà cơ cấu tổ chức tư bản đó sẵn sàng biến hóa theo nhu cầu từng giai đoạn, cũng là một luật tiến hóa tự nhiên. Sức mạnh của một quốc gia nằm trong lãnh vực kinh tế: Mạnh vì gạo, bạo vì tiền.
Nhưng các quốc gia, đặc biệt là các cường quốc về quân sự cũng như kinh tế, không ai muốn thế quân bình hiện có bị xáo trộn. Không một cường quốc nào sẵn lòng đi giúp một nước này chống nước khác nếu không phải vì muốn bảo vệ thế quân bình tương đối ổn định đó. Ý nghĩ kết thân với một nước này để chống lại nước khác hoàn toàn dựa trên địa lý chính trị là một ảo tưởng. Trái đất đã “bằng phẳng” hơn, núi, sông, biển cả không còn quyết định các mối tương quan quốc tế như trong thế kỷ trước nữa. Chiến tranh lạnh đã chấm dứt, mỗi cường quốc kinh tế chỉ lo bảo vệ quyền lợi của họ và họ biết các quốc gia khác cũng như vậy. Các quốc gia liên kết với nhau, chính yếu là qua những hiệp ước thương mại chứ không phải qua những liên minh quân sự như 50 năm trước nữa. Ý tưởng liên kết với một nước khác qua một chủ nghĩa, vì cùng một chế độ, một mô hình tổ chức xã hội, là một ý tưởng lạc hậu và nguy hiểm cho chính bản thân nước mình.
Các nước như Ðài Loan, Nam Hàn cũng lo lắng trước sự bành trướng quân sự và kinh tế của Trung Quốc; nhưng trong dân chúng họ không hoảng hốt lo âu như ở Việt Nam hiện nay. Lý do vì họ đã đi trước lục địa Trung Hoa trên con đường tư bản hóa; dân họ giầu có hơn, lại nhờ chế độ tự do ngôn luận người dân được thông tin đầy đủ nên hiểu biết hơn, vì thế họ vững tâm hơn.
Nhưng một sức mạnh không thể chối cãi được là ở các nước trên dân chúng và chính quyền đều đồng ý với nhau phải làm sao cho dân giầu, nước mạnh thì mới đứng vững được trong cuộc chạy đua với hơn một tỷ người Trung Hoa. Và họ biết phải làm gì để dân giầu, nước mạnh. Chế độ tự do dn chủ giúp cho cả nước một lòng.
Dân chúng các nước này có “đồng thuận” với nhau không? Có thể trả lời ngay là không! Chính sách tăng cường giao thương với Trung Quốc của chính phủ Quốc Dân Ðảng ở Ðài Loan đang bị đảng đối lập và báo chí tự do chỉ trích. Phe đối lập nêu rất nhiều lý do khác nhau, nhưng đó là những lý do thực tế chứ không dựa vào chủ nghĩa nào cả. Tại Nam Hàn mỗi lần thay đổi tổng thống là lại xác định một chính sách mới đối với Bình Nhưỡng cũng như Bắc Kinh. Nam Hàn nhỏ như vậy, dân số ít hơn nước Việt Nam mình, nhưng họ dám cho hải quân thao dượt chung với Mỹ ngay trong Hoàng Hải kề cận nước Trung Hoa; mặc dù Bắc Kinh ồn ào phản đối. Nhưng ngay trong nước họ,người Nam Hàn cũng cãi nhau về chính sách đối với Bắc Hàn.
Trong xã hội dân chủ chỉ cần mọi người cùng theo những luật chơi minh bạch, công khai để quyết định những chính sách chung. Chính nhờ những luật chơi dân chủ mà một khi chính sách quốc gia đã được đa số dùng lá phiếu để lựa chọn rồi, cả nước trên dưới một lòng. Mặc dù lúc nào cũng vẫn có người vẫn không đồng ý và tiếp tục tìm cách chinh phục đa số theo ý kiến của mình.
Chính chế độ tự do dân chủ đã gây nên sức mạnh của Hàn Quốc và Ðài Loan. Các đảng chính trị ở hai nước đó vẫn “đấu đá” nhau thẳng tay để giành quyền lãnh đạo, nhưng các quyền tự do căn bản của người dân được tôn trọng và người dân nắm quyền lựa chọn tối hậu. Trong nước họ cũng có những người lợi dụng quyền thế làm tiền; cũng có những nhà kinh doanh tìm cách hối lộ cho được việc; nhưng nhờ báo chí tự do và bầu cử tự do cho nên trong xã hội có cả một mạng lưới ngăn ngừa tham nhũng tự nhiên. Ðiều đáng kể nhất là xã hội công dân ở các nước trên đã phát triển rất mạnh nhờ các công dân đều được tự do lập hội, từ những hội từ thiện, thể thao, nghệ thuật, giải trí,cho tới đảng chính trị. Mỗi nhóm công dân có những nhu cầu và quyền lợi riêng được tự do hoạt động và phát triển mà không bị guồng máy nhà nước ngăn cản. Năm ngoái khi Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đến thăm Ðài Loan do lời mời của các Phật tử để cầu nguyện cho các nạn nhân bị bão, Bắc Kinh đã kịch liệt đả kích cuộc thăm viếng này. Chính phủ Quốc Dân Ðảng ở Ðài Loan cũng tỏ ý chống, vì không muốn làm mất lòng chính quyền cộng sản lục địa trong lúc đang bàn chuyện buôn bán làm ăn. Nhưng chính quyền Ðài Bắc vẫn phải chịu thua dân, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma được mời thì cứ tới. Chỉ trong một nước tự do người ta mới thể hiện được đủ các quyền công dân như vậy. Và năm nay Trung Quốc với Ðài Loan vẫn ký một hiệp ước thương mại mở thêm rất nhiều cửa cho các công ty Ðài Loan bán hàng vào lục địa!
Ðối với nước Việt Nam ta, điều đáng lo lắng nhất không phải là Trung Quốc tiến lên địa vị mạnh hơn ở Á Châu và trên thế giới. Ðiều đáng lo nhất là nước Việt Nam đã chậm tiến lại càng ngày càng bị bỏ lại phía sau, trong khi bên Trung Quốc người ta tiến nhanh hơn về kinh tế và trong khi các nước khác trong vùng Á Ðông tiếp tục tiến bộ cả về chính trị và kinh tế. Người Việt Nam phải làm gì để đứng vững trước mối đe dọa về sự bành trướng của Trung Quốc trong thế kỷ 21? Muốn giảm bớt mối lo người Việt chỉ còn cách phải thay đổi cả về chính trị lẫn kinh tế để theo kịp Nam Hàn và Ðài Loan! Khi nào nhà nước cộng sản trả lại các quyền tự do cho dân, người dân Việt được làm ăn tự do hơn và được góp ý kiến tự do hơn vào việc nước, thì mới hy vọng sẽ dần dần giảm bớt mối lo!
Chính quyền cộng sản ở Việt Nam hiện nay đang đẩy lùi cả nước đi ngược dòng tiến hóa khi họ đang lo bắt bớ những bloggers, cấm đoán dân phát biểu ý kiến khác với đảng. Khi các chuyên gia và giới trí thức, đa số sống ở Hà Nội dưới chế độ cộng sản nửa thế kỷ nay cũng phải tự giải tán một tổ chức khoa học chỉ nhằm mục đích nghiên cứu phát triển và bảo vệ môi trường thì các công dân khác làm sao góp phần xây dựng quốc gia? Cuộc đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long lại được khai mạc vào đúng ngày Quốc Khánh Trung Cộng, khi mà ai cũng biết vua Lý Thái Tổ dời đô vào Tháng Bẩy âm lịch! Bao nhiêu người thắc mắc mà chính quyền không thèm giải thích tại sao họ lại chọn ngày đó!
Với một chính quyền lạc hậu và coi thường ý dân như thế, dân tộc ta không lo lắng sao được? Cứ để cho một nhóm tham nhũng và bất lực tiếp tục cầm đầu, nắm cổ mọi người mãi hay sao?
Nguồn: Nguoi-viet.com