Nguyễn Thanh Giang
Tôi mượn lời Thúy Kiều nghênh tiếp người anh hùng Từ Hải: “Rằng bây
giờ mới thấy đây/ Mà lòng đã chắc những ngày một hai” để bầy tỏ nỗi hoan
hỉ đón mừng một sự kiện, một nhân vật:
Về một sự kiện –
Nhà bình luận Phạm Chí Dũng (DR)
Ngày 4 tháng 7 năm 2014 Hội Nhà báo độc lập Việt Nam (HNBĐLVN) tên
tiếng Anh là Independent Journalists Association of Vietnam (IJAVN) công
khai tuyên bố thành lập nhằm “Làm thế nào để báo chí và các nhà báo
cất được tiếng nói theo đúng nghĩa của hai từ “tự do”? Làm thế nào để
báo chí được làm đúng thiên chức của mình, phản biện và xây dựng một xã
hội công bằng, một đất nước thật sự độc lập tự chủ, không cúi đầu hoặc
run sợ trước hiểm họa ngoại xâm đang quá cận kề” (Tuyên ngôn Thành lập Hội).
Việc chọn ngày 4 tháng 7 để ra Tuyên bố được ông Phạm Chí Dũng – Chủ tịch Hội - giải thích: “Ý
nghĩa ấy gắn với bản tuyên ngôn độc lập năm 1776 vào thời khai sinh ra
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Tính chất độc lập của bản tuyên ngôn này lại rất
phù hợp với tính cách độc lập của Hội các nhà báo tự do. Nếu Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ hướng đến một sự tách rời hoàn toàn khỏi ý đồ thực dân của
nước Anh thì nhiệm vụ của báo giới độc lập Việt Nam vào lúc này và trong
những năm tới cũng không khác biệt, tức không chỉ độc lập với các hội
đoàn nhà nước mà còn phải đóng góp cho quốc gia để gìn giữ nền độc lập
nước nhà trước họa xâm lăng Trung Quốc”.
Ông Nguyễn Công Bằng, chủ tịch Đảng Vì dân Việt Nam gửi lời chúc mừng và đánh giá: “Hội
Nhà báo Độc lập Việt Nam là một tập hợp xã hội dân sự mới nhất. Tuy
nhiên Hội này không mang tính non trẻ vì, nhìn vào thành phần sáng lập
và điều hành, chúng ta thấy được sự tham gia của những người đã và đang
có nhiều đóng góp lớn cho công cuộc dân chủ hóa đất nước.
Với tập hợp ban đầu bao gồm nhiều cây bút có xuất xứ khác nhau,
kể cả những định hướng đấu tranh khác nhau, sự thành hình Hội Nhà báo
Độc lập Việt Nam là một biểu hiện lớn của tinh thần dân chủ; trong đó
mọi sự khác biệt được tôn trọng để cùng góp sức xây dựng một thành quả
chung”.
Cùng ngày ra Tuyên bố Thành lập Hội, “Việt Nam Thời báo” - trang báo do chính Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam chủ xướng và điều hành - cũng đã ra mắt độc giả khắp nơi.
Trong cuộc phỏng vấn với Truyền thông Chúa Cứu Thế, ông Phạm Chí Dũng – Chủ tịch Hội tuyên bố:
“Chúng tôi muốn so sánh với tờ Bangkok Post. Cố gắng trong 10 năm
sắp tới trang mạng của Hội phải so sánh được với Bangkok Post, hoặc hơn
nữa như tờ Straits Times của Singapore, hoặc phải nghĩ đến những viễn
cảnh xa vời như Le Monde của Pháp”.
Nhiệt liệt hoan nghênh người bạn mới của “Bán nguyệt san Tổ Quốc”.
Từ nay Lực lượng Dân chủ trong nước có thêm một Tiếng Nói bên cạnh “Tự
do Ngôn luận”, “Tổ Quốc”, “Bauxite Viêt Nam”, “Diễn đàn Xã hội Dân sự”.
Ra đời ngày 15 tháng 9 năm 2006, tập san Tổ Quốc đã tồn tại được gần
8 năm, phát hành được 184 số dưới ba hình thức: đăng trên website, gửi
đến các hộp thư email, ấn hành báo giấy. Báo giấy “Tổ Quốc” tuy chưa
được phát hành chính thức nhưng nhờ nguồn tài chính hỗ trợ từ Tập hợp
Dân chủ Đa nguyên của chính trị gia Nguyễn Gia Kiểng có lúc ấn bản cũng
đã lên tới trên dưới 800. Cách làm như sau: Chúng tôi trang bị computer,
máy in, máy photocopy cho một số địa chỉ ở các thành phố lớn và một số
tỉnh để anh em nhân bản và đem tán phát bí mật. Nhiều người, đến nay, đã
trở nên “nghiện” “Tổ Quốc” đến nỗi hốt hoảng mỗi khi thấy báo ra chậm
hoặc chậm nhận được báo (vì tâm lý e ngại thường trực, sợ có trục trặc
gì hoặc báo đình bản). Trong số “nghiện” “Tổ Quốc” có rất nhiều lão
thành cách mạng, kể cả một số cán bộ Đảng đương chức.
Vui mừng thấy HNBĐLVN và “Việt Nam Thời báo” đường hoàng, đĩnh đạc
tuyên bố ra mắt công khai mà cho đến nay vẫn được an toàn chứ không phải
chui lủi khốn khổ như “Tổ Quốc” buổi sinh thành. Ngày ấy tôi phải bí
mật gặp gỡ từng thành viên định đưa vào danh sách Ban Biên tập với thỏa
thuận: Hễ bị công an truy bức thì cứ nói mình chưa thật sự nhận lời mà
đã bị ghi danh, miễn đừng chính thức tố cáo. Quả nhiên, tất cả đều bị
công an triệu tập hoặc đến nhà truy vấn, dọa dẫm. Tuy nhiên, chỉ trừ một
người ngụy phản, tất cả đều chung thủy với “Tổ Quốc”. Đại tá Phạm Quế
Dương được mời đứng vào vị trí quan trọng nên bị khủng bố mạnh nhất. Mặc
dầu Đại tá rất kiên cường nhưng vì cả vợ và con Đại tá đều không chịu
nổi sức uy hiếp, lăng nhục rất tàn bạo nên người gọi điện, người viết
thư, người đến tận nơi thuyết phục buộc tôi đành rút tên Phạm Quế Dương
ra khỏi tờ báo. Vẫn không xong, vì nhiều người khác cũng lâm cảnh lao
lung rất đáng thương cảm, đến nỗi tôi phải rút tên tất cả để chỉ còn
ghi: “Nhóm trí thức Dân chủ Việt Nam trong và ngoài nước phối hợp thực
hiện”.
Nay thì, theo nhận định của ông Nguyễn Công Bằng: “Hội Nhà báo
Độc lập Việt Nam là một trắc nghiệm nhiều mặt và nhiều thành phần. Nếu
nhà nước Việt Nam đàn áp mạnh những nhà báo độc lập, họ sẽ phải trả một
cái giá không nhỏ cho hành động phủ nhận quyền tự do ngôn luận -- điều
mà nhà cầm quyền đang cố gắng né tránh, ít nhất là ở lúc này. Không
những thế, sự đàn áp đoàn thể tân lập này sẽ cho thế giới thấy được tính
chất độc tài của nhà nước đương quyền, khi họ nhất quyết không chấp
nhận một tổ chức xã hội dân sự hoàn toàn ôn hòa”
Nói vậy nhưng rồi ông NCB vẫn không thể không quan ngại: “Sự tập
hợp các cây bút nổi tiếng và thành hình Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam là
một nỗ lực chắc chắn sẽ gặp nhiều thử thách cam go. Biết được điều này
và vẫn quyết tâm đi tới, để tồn tại và sinh hoạt một cách hiệu quả, thì
tập thể này quả là đầy dũng cảm, đáng được trân trọng và kính phục.”
Về một nhân vật –
Nhân sinh nhật vừa qua, tôi có chia sẻ với một số thân hữu mấy vần
thơ buồn “Ơ kìa, sao đà sắp tám mươi!/ Mắt đã mỏi, bước chân chừng ngắn
lại/ Đêm chỉ còn hạt sao rơi vãi/ Ngày chỉ còn nắng quái chiều hôm”.
Đoạn vĩ thanh, bài thơ có cố rướn lên: “Nhưng con tim cứ thúc nhịp trống
dồn/ Mạch máu rân rân như còn vượt thác/ Trang giấy tãi chong chong,
sao ngủ được/ Có đàn voi rậm rịch chạy trong đầu”. Nhưng, dẫu sao tôi
cũng đã như một “Lão ô bách tuế”. May thay, bên cạnh tôi đã từng sải
cánh một đàn “Phượng hoàng sơ sinh”: Trần Huỳnh Duy Thức, Vi Đức Hồi, Lê
Quốc Quân, Đỗ thị Minh Hạnh, Phạm Hồng Sơn, Lê thị Công Nhân, Huỳnh
Thục Vy, Nguyễn Tiến Trung… Nay lại có thêm chú phượng hoàng Phạm Chí
Dũng đang vượt lên hàng đầu.
Sinh năm 1966, từng theo học trường Học viện Kỹ thuật Quân sự nhưng Phạm Chí Dũng lại có cả bằng Tiến sỹ Kinh tế.
Nhiều nguồn tin riêng cho biết Phạm Chí Dũng đảm nhận nhiều vị trí
công tác cả công khai lẫn bí mật. Về mặt công khai, trước đây Phạm Chí
Dũng thuộc Ban Dân vận nhưng vai trò kín là cán bộ Ban An ninh Nội chính
Thành ủy Tp. Hồ Chí Minh, cộng tác viên của Tổng Cục Hai. Trong vai trò
an ninh nội chính này, mặc dù không phải là trợ lý, Phạm Chí Dũng vẫn
thường gặp gỡ báo cáo và tháp tùng với ông Trương Tấn Sang lúc ấy là Bí
thư Thành phố HCM.
Sau khi ông Trương Tấn Sang ra trung ương, Phạm Chí Dũng qua công
tác bên Ban Tôn giáo một thời gian. Vợ của Phạm Chí Dũng tên là Khanh
hiện công tác ở Ban Tôn giáo. Phạm Chí Dũng làm việc ở Ban Tôn giáo một
thời gian và sau đó trở lại vị trí An ninh Nội chính
Ngày 17-7-2012, Cơ quan an ninh điều tra Công an TP. HCM đã bắt,
khám xét khẩn cấp nơi ở, nơi làm việc của Phạm Chí Dũng với tội danh
“Câu kết với một số tổ chức phản động lưu vong ở Mỹ, biên soạn nhiều tài
liệu có nội dung bịa đặt, xuyên tạc, phá hoại nội bộ nhằm lật đổ chính
quyền nhân dân”
Sau 6 tháng giam cầm, Phạm Chí Dũng được trả tự do với một quyết
định rất lý thú: “Đình chỉ điều tra đối với ông Phạm Chí Dũng. Ông Phạm
Chí Dũng có thể trở lại công tác như cũ”.
Phạm Chí Dũng đã từ bỏ Đảng với lý do: “Tôi tự nhận thấy Đảng
Cộng sản không còn đại diện và phục vụ cho quyền lợi của đại đa số nhân
dân, và điều đó đi ngược với tôn chỉ mục tiêu ban đầu của Đảng cùng lời
thề của tôi khi vào Đảng. Do vậy tôi không còn phù hợp với vai trò và
nghĩa vụ một đảng viên trong Đảng Cộng sản”.
Phạm Chí Dũng còn được xem như một nhà văn, nhà phê bình có tài. Ông
bắt đầu sáng tác từ năm 1986, đã xuất bản các tác phẩm: tập truyện ngắn
“Những bông hoa hoang dã” (1993), tập truyện ngắn “Tự thú” (1994), tập
truyện ngắn “Những chiếc bồn tắm định mệnh” (2005), tiểu thuyết “Cuộc
phiêu lưu của linh hồn cầm cố” (2005), tiểu thuyết “Ngài nghị sĩ”
(2006). Ngoài ra, nhà văn Phạm Chí Dũng còn có tập phê bình sân khấu
“Vẫn ngôi nhà trái tim tan vỡ ấy” (2004) tập kịch bản sân khấu “Thuyền
chở nước Côlômba” (2005), và các tập nghiên cứu “Thế giới ca ngợi và
thương tiếc Hồ Chí Minh” (2005), “Viện trợ phi chính phủ ở Việt Nam: con
cá hay cần câu?” (2006) “Tự sự chứng khoán – Những gam màu ám ảnh”
(2007)
Ông còn viết báo với các bút danh: Việt Thắng, Viết Lê Quân, Trường Sơn…
Phạm Chí Dũng đúng bằng tuổi con trai tôi nhưng tôi không chỉ yêu
quý mà có thể nói là còn kính nể bởi tài năng và sức làm việc phi thường
của anh. Hơn thế nữa, chúng tôi lại đã từng “Đồng thanh tương ứng/ Đồng
khí tương cầu”.
Về mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc tôi từng đã viết nhiều bài, trong đó có: “Tỉnh táo trong quan hệ quốc tế”, “Đáng sợ nhưng quyết không khuất phục”, “Rất đáng phàn nàn về ông Nguyễn Phú Trọng”, “Nguy cơ Lê Chiêu Thống hiện đại”,
“Việt Nam cần có vũ khí nguyên tử” “Nắm tay Trung Quốc, cảnh giác Đại
Hán”, “TBT Nguyễn Phú Trọng chưa nên đi Trung Quốc”, “Tầm cao chiến lược
là cái chi chi”, “Trung Quốc trong nhãn quan Nguyễn Du”, “Trung Quốc
đang xâm lược Việt Nam”, “Phải làm gì khi Trung Quốc nhất định chiếm
Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông của ta?”, “Lại nói về nguy cơ Lê Chiêu
Thống hiện đại”, “Mấy nghi vấn đối với Tuyên bố chung Việt Nam – Trung
Quốc do ông Nguyễn Phú Trọng ký kết”, “Hợp tác với Hoa Kỳ là yêu cầu bức
thiết không chỉ vì nước giầu dân mạnh mà còn vì độc lập dân tộc, toàn
vẹn lãnh thổ”, “Tưởng niệm hải chiến Hoàng Sa và chiến tranh Biên giới”,
“Hữu nghị nhưng phải cảnh giác”, “Không liên minh với Hoa Kỳ để chống
Trung Quốc, nhưng cần/phải liên minh với Hoa Kỳ để giữ Biển Đông”, “Dầu
khí ở Biển Đông”, “Bộ trưởng Quốc phòng chống lại Thủ tướng”, “Lý thắng
phải là lý của kẻ mạnh”…
Thấy tôi khẳng định chỉ có khẩn cấp thiết lập Liên minh Quân sự với
Hoa Kỳ và Nhật Bản mới mong giữ được Biển Đông, một số người chưa thông
thấu lắm, Phạm Chí Dũng đã giảng giải thêm:
“Chỉ có thể xây dựng một quan hệ chiến lược về quốc phòng với Mỹ,
người Việt Nam mới nhận được sự hỗ trợ đủ mạnh để đối phó với tham vọng
khống chế Biển Đông và cả đất liền của Trung Quốc. Bằng chứng sống động
và gần gũi nhất là mới vào cuối tháng 4/2014 ngay trong chuyến công du
của Tổng thống Barack Obama đến Philippines, hai quốc gia này đã ký kết
với nhau một bản hiệp ước về tương trợ quốc phòng”.
“Ngay lập tức, những động tác “ném đá dò đường” của Trung Quốc
đối với các đảo nhỏ của Philippines lắng hẳn đi, còn Manila tuyên bố
không ngần ngại tiếp tục chương trình kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế,
và trong thực tế họ đã bắt giữ tất cả những tàu cá Trung Quốc xâm phạm
vùng lãnh hải Philippines”.
“Chúng ta đã thấy bài học của Nhật Bản và Hàn Quốc là những quốc
gia đã cộng tác quân sự với Mỹ từ hơn ba chục năm qua. Còn Philippines
cũng là một đồng minh quân sự và được Mỹ bảo vệ cho đến giờ này. Tất cả
những quốc gia ấy có bị Trung Quốc hiếp đáp như đối với Việt Nam không?
Câu trả lời là không hoặc rất ít. Âu đó cũng là một bài học phản tỉnh
cho Nhà nước Việt Nam khi họ chọn quan hệ đu dây mà chẳng đi tới đâu,
thậm chí còn bị lật ngửa như mới đây”. (Trả lời phỏng vấn RFI ngày 13/6/14).
Vài người nào đó lại e ngại Hoa Kỳ sẽ “không thèm” liên minh với ta.
Tôi định viết bài phân tích cho rõ thêm thì Phạm Chí Dũng đã đỡ lời rất
sáng tỏ:
“Về phía Mỹ, Tổng thống Obama lần đầu tiên trong hai nhiệm kỳ đã
đưa ra lời tuyên bố cứng rắn với Trung Quốc về chuyện khả năng Mỹ có thể
đưa binh lực tới khu vực Biển Đông để giải quyết những xung đột vũ
trang có thể phát sinh tại khu vực và cũng là để bảo đảm cho những lợi
ích của người Mỹ về vấn đề tự do hàng hải, an ninh hàng hải ở khu vực
Biển Đông. Đó là một động thái khá kiên quyết về phía Mỹ theo một lối mở
mà như tư lệnh của quân đội Mỹ ở châu Á Thái Bình Dương – ông Locklear –
đã tuyên bố, đã bắn tiếng trên Reuters là phía Mỹ có thể xây dựng một
đối tác chiến lược với phía Việt Nam. Mà trở thành đối tác chiến lược
thì anh có thể hình dung nó cần thiết với Việt Nam thế nào rồi, bởi vì
trước đây ông Trương Tấn Sang chưa thể hy vọng việc trở thành một đối
tác chiến lược mà chỉ là đối tác toàn diện mà thôi. Đối tác chiến lược ở
đây phải nói tới là chiến lược về an ninh và về quốc phòng, đó chính là
điều mà người Việt Nam cần nhất hiện nay, hơn cả Hiệp định Đối tác Kinh
tế xuyên Thái Bình Dương (TTP). Chỉ có đối tác chiến lược đầy đủ với
Hoa Kỳ mới có thể tạo ra một hàng rào chắn, một lá chắn đủ mạnh, đủ xung
lực, đủ hỏa lực để ngăn chặn hạm đội Nam Hải của Trung Quốc. Các động
thái gây hấn của Trung Quốc là không chỉ ở Biển Đông mà còn ở biên giới
phía Bắc, đó là điều cực kỳ quan trọng đối với Việt Nam. Nếu như Việt
Nam không thể đạt được điều đó thì có thể nói là không có một điều gì,
không có một con người nào, không có tài sản của một quan chức nào ở
Việt Nam có thể an toàn.. (Trả lời nhà báo Trần Quang Thành 7/6/14)
“Nếu không can thiệp mà để cho Trung Quốc tự tung tự tác, Mỹ sẽ
gặp bất lợi lớn về tự do hàng hải, an toàn hàng hải ở Biển Đông và do đó
có thể sẽ bị phá sản phần lớn chính sách xoay trục sang châu Á - Thái
Bình Dương của Mỹ. Ai cũng biết rằng Biển Đông có vị trí như một cửa ngõ
cho giao thương hàng hải và nếu cần có thể khống chế hoạt động quân sự
của cả khu vực phía Nam và các nước xung quanh. Hiện nay cuộc đua lớn
nhất giữa Trung Quốc và Mỹ chính là điểm xung yếu này. Do vậy nếu bị
Trung Quốc qua mặt ở Biển Đông, mục tiêu an toàn hàng hải của Mỹ sẽ bị
đe dọa nghiêm trọng, vai trò của Hạm đội 7 cũng có không ý nghĩa đủ lớn,
làm cho chính sách của Mỹ về bảo vệ an ninh thế giới và cũng là an ninh
của công dân Mỹ sẽ lạc điệu.
Lời bắn tiếng về mối liên kết “đối tác chiến lược” với Việt Nam
của Tư lệnh quân đội Mỹ ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương Locklear là
một minh chứng khá hoàn hảo về việc người Mỹ hoàn toàn không bỏ qua ý đồ
phong tỏa Biển Đông của Trung Quốc” (Trả lời phỏng vấn RFI)
Nghe diễn văn của Phùng Quang Thanh ở Shangri La, không nén nổi sự
khinh bỉ tột độ, tôi đã nặng lời: “Có người bảo diễn văn của Phùng Quang
Thanh đã được Bộ Chính trị duyệt từng câu từng chữ. Tôi rất không tin.
Trong 16 con người ấy dù có những kẻ Lú thì cũng còn phải có Người khôn
chứ. Đóan rằng, trước khi đi, đồng chí Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương
chỉ thỉnh thị ý kiến ông Chủ tịch Quân ủy Trung ương. Cho nên cái văn
khi ở đây mới ám phải mùi tử khí khăm khẳm đến thế!”.
Mấy hôm sau, tôi nhận được sự đồng tình của Phạm Chí Dũng:
“Nhưng Hội nghị Shangri-la đã chứng tỏ bản lĩnh quá yếu kém của
phía Việt Nam. Hoàn toàn không đạt yêu cầu khi đưa một ông Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng ra để chỉ nói những câu văn vẻ không có nghĩa gì hết, gây
phản cảm rất lớn trong dư luận, cho thấy một vị thế quá yếu kém của Việt
Nam trên chính trường quốc tế. Điều đó gây ra hậu quả là quốc tế họ coi
thường Việt Nam, họ đánh giá Việt Nam là chỉ có lời nói mà không có
hành động, mà nếu như chỉ có lời nói mà không có hành động thì khi xảy
ra chiến tranh với Trung Quốc thì quân đội Việt Nam sẽ đánh nhau như thế
nào đây với một vị Đại tướng nói không nên lời? Đó là điều quá rõ” (Trả lời nhà báo Trần Quang Thành 7/6/14).
Trước đây tôi từng tích cực góp phần vận động Việt Nam tham gia WTO,
bây giờ tôi khấp khởi chờ mong Việt Nam sớm được gia nhập TPP. Tôi phản
đối những ai muốn dìm đất nước trong đói khổ để hy vọng nhân dân sẽ nổi
lên lật đổ ĐCSVN. ĐCSVN cần phải bị tước bỏ đặc quyền, đặc lợi, độc
tài, độc đoán, tốt nhất là bị thay thể trong môi trường dân chủ đa
nguyên đa đảng. Tuy nhiên, trong bất kỳ tình huống nào cũng không được
đem nhân dân làm vật thí thân. Như vậy là tàn bạo, tàn bạo hơn cả cộng
sản.
Phạm Chí Dũng không chỉ “đồng khí tương cầu” với tôi, mà còn tiên đóan một cách rất đáng ngưỡng vọng:
“Tôi nói với quý vị về cảm nhận của tôi là một người trong nước. Theo tôi, có thể là ngay trong năm nay, vào khoảng tháng 9, tháng 10 sẽ có những tín hiệu mới về vấn đề TPP, tức nhà nước Việt Nam có thể được tham gia vào TPP một cách đặc cách chứ không phải theo cách bình thường. Những vấn đề được đặt ra vào năm 2013 và lời hứa của ông Barack Obama - tổng thống Hoa kỳ - về khả năng sớm nhất để Việt Nam có thể tham gia vào TPP.. “, (Nhà báo Phạm Chí Dũng hội luận với giáo sư Carl Thayer và người Việt ở Úc ngày 24/6/14).
Trên cơ sở nhận định thực tế hiện nay chưa có lực lượng nào đủ khả
năng tấn công và thay thế ĐCSVN nên đành dựa vào những nhân tố khả dĩ
nhất trong Đảng để cải tạo và hóa giải ĐCSVN. Nhân tố có thể kỳ vọng hơn
cả hiện nay là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Chủ trương đó của tôi, không
ngờ, bị ngay cả một số người có nhãn quan chính trị rất sắc bén không
đồng thuận. May sao, lại có Phạm Chí Dũng “đồng thanh tương ứng”:
“Nếu không xét đến những gương mặt chính khách chưa xuất hiện,
trong tất cả những gương mặt hiện nay và trong khoảng hai năm tới, tôi
chỉ hy vọng vào một nhân tố duy nhất là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nhưng
hy vọng này cũng chỉ mới manh nha và còn rất chập choạng.
Cơ sở để có thể có đôi chút hy vọng vào Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
là bởi ông ta đang trong tình thế phải “cứu nhà, cứu nước”. Nước mất
thì nhà tan. Nhưng muốn cứu nhà thì trước hết và dù muốn hay không cũng
phải cứu nước.
Sau vụ giàn khoan Hải Dương 981, có vẻ ông Nguyễn Tấn Dũng đã dứt
khoát hơn trong chính sách chuyển hướng xoay trục sang phương Tây. Để
đối chọi với Trung Quốc, trước mắt người Việt cần ít nhất sự hỗ trợ của
Hạm đội 7 của Mỹ, sau đó là một bản hiệp ước tương trợ quốc phòng với
Hoa Kỳ, như kết quả mà Philippines đã vừa đạt được. Và cuối cùng, tốt
nhất Việt Nam trở thành một đồng minh quân sự với Hoa Kỳ như trường hợp
Nhật Bản và Hàn Quốc”.
“Nếu một cuộc chiến tranh được kích động từ Trung Quốc, Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng liệu có thể dựa vào 3/4 trong số gần 200 ủy viên trung
ương đảng để chiến đấu, hay ông ta phải dựa vào 90 triệu dân chúng? Có
lẽ đó là lý do để ông Dũng trở thành người duy nhất trong bộ tứ triều
đình đưa ra một vài tuyên bố có vẻ cứng rắn đối với Bắc Kinh”.(PCD trả lời phỏng vấn RFI).
Khả năng viết và diễn giảng của Phạm Chí Dũng thật đáng trân trọng
và khâm phục. Chỉ trong vòng một năm qua PCD đã viết hơn 200 bài báo và
trả lời hơn 100 cuộc phỏng vấn. Vì vậy, có lúc PCD gở miệng, đã tuôn ra
những dòng bi quan, yếm thế lạc lõng đến mức ngạc nhiên này:
“Làm sao để chiến thắng Trung Quốc nếu Tổ quốc ta bị xâm lược?
Làm sao để chiến đấu, hay chỉ là biểu lộ cơn giận dữ trả thù dân tộc cực
đoan, nhưng sau đó chính những kẻ cực đoan này sẽ biến mất ngay khi
chiến tranh ập tới?
….. Kinh tế sẽ hoàn toàn đình đốn. Đất nước sẽ rơi vào hỗn loạn và
tan hoang. Không chỉ chế độ mà nhiều gia đình sẽ tan nát. Một góc hình
ảnh nạn đói 1945 sẽ có thể tái hiện…” (Tâm thư gửi công nhân: Người với người không thể giết nhau).
Cho nên, tôi muốn đề nghị PCD nên “phanh” bớt bầu nhiệt huyết lại.
Đầu tư thời gian công sức viết những bài có sức khái quát, có tầm tư
tưởng, tầm chiến lược cao hơn.
Những hoạt động năng nổ, nhất là Tuyên bố thành lập HNBĐLVN chưa bị
“sờ đến” không có nghia là người ta thực sự buông tha. Họ thâm độc lắm,
họ thiện nghệ lắm. Không đấm được vào mặt thì họ sẽ thụi ngầm sau lưng
đấy. Không trực diện đương đầu được, rất có thể họ sẽ sử dụng chính anh
em thân cận nhất của mình diệt mình. Sự tung hoành năng nổ đang làm uy
tín của Dũng lên rất cao nhưng chính vì thế cũng có thể làm cho không ít
bằng hữu cùng chiến tuyến đố kỵ tỵ hiềm mà vô tình hay cố ý bị các thế
lực chống dân chủ hóa lợi dụng biến thành nội công của họ. Kinh nghiệm
đau xót của tôi cho thấy họ có khả biến những người từng sát cánh mình
nhất, những tả phù hữu bật mình, thậm chí cả người đã từng chịu ơn mình
quay lại triệt hạ mình bằng nhừng lời vu khống, xuyên tạc ty tiện nhất,
tàn độc nhất.
Tuy nhiên, tôi tin ở sự thông minh, từng trải của Dũng. Đọc đoạn
tường trình buổi bị truy vấn của Dũng thấy rất giống những buổi họ từng
truy vấn tôi. Khác một điều là khi họ đưa các bài viết của tôi rút từ
trên mạng, chỉ đọc qua đầu đề là tôi ký xác nhận ngay tức khắc, còn
Dũng, Dũng đòi tự mở files của mình, tự in ra, rồi mới ký vào đó.
Vả chăng tin rằng Dũng vốn là người có thủy có chung khi viết những
dòng sau đây về buổi đến mừng Đỗ thị Minh Hạnh vừa được trả tự do:
“Trở về ngoài đời mới thấy mọi chuyện như một giấc mơ. Thật đúng
như một giấc mơ! Em cứ tự hỏi làm sao mà các anh lại hy sinh và làm được
nhiều như thế trong những năm qua?” - Minh Hạnh thốt lên với tôi, giọng
rổn rảng đầy âm sắc. Còn tôi lại thật sự xấu hổ: “Làm sao có được giấc
mơ này, nếu không có những người đi đầu hy sinh như Hạnh?”.
Hà Nội, 11 tháng 7 năm 2014
Nguyễn Thanh Giang
Mobi: 0984 724 165
website: www.nguyenthanhgiang.com
Nguyễn Thanh Giang
Mobi: 0984 724 165
website: www.nguyenthanhgiang.com