Phong Uyên
Tin liên quan:
- Dambisa Moyo - Trung Quốc có là thần tượng của những nền kinh tế đang phát triển?
- Phan Châu Thành - Thần tượng kinh tế Trung Quốc ư? I “can” U!...
Trong một bài thuyết trình tại Diễn Đàn TED tháng 11 năm 2013 đăng
trên Dân Luận mới đây, nữ tiến sĩ Dambisa Moyo có vẻ muốn đề cao cái mà
bà ta gọi là "chủ nghĩa Tư bản nhà nước mô hình Trung Quốc" khi nói: "Thay
vì theo Chủ nghĩa Tư bản tư nhân (kiểu Tây phương), họ (TQ) thiết lập
chủ nghĩa tư bản nhà nước. Họ đã không ưu tiên hóa vấn đề dân chủ. Trái
lại họ đã đặt các quyền lợi kinh tế ưu tiên hơn các quyền chính trị...
Xin thưa với quý vị rằng chính là hệ trhống ở TQ đàng khiến người dân
các quốc gia đang phát triển nghĩ rằng đó là hệ thống đáng noi theo...."
Theo giải thích của bà Dambisa Moso, trên thế giới chỉ có 2 mô hình
kinh tế. Cả 2 đều rập khuôn theo Tư bản chủ nghĩa. Cả hai chỉ khác nhau
tí chút: Một bên là chủ nghĩa Tư bản tư nhân của Tây phương, ưu tiên hóa
những quyền chính trị là tự do và dân chủ. Một bên là chủ nghĩa Tư bản
nhà nước của cộng sản Trung Quốc, lo tăng trưởng kinh tế hơn là vấn đề
cho người dân được tự do chọn lựa nhà cầm quyền.
Bà Dambisa Moyo có vẻ không biết là cái Kinh tế thị trường Xã hội chủ nghĩa
(l' Économie Socialiste de Marché) của Tàu cộng không phải là một chủ
nghĩa Tư bản Nhà nước như ở các nước cộng sản Liên Xô thời Staline và
thời Mao, mà chỉ là một hệ thống trong đó nền kinh tế phóng khoáng bị
đặt dưới quyền kiểm sát chính trị độc tài của một đảng duy nhất. Tất
nhiên là mọi quyền hành chính trị đều nằm trong tay đảng này nên không
thể nói đây là chủ nghĩa Tư bản nhà nước "đặt các quyền kinh tế ưu tiên
hơn các quyền chính trị" như cách định nghĩa hơi ngây thơ của bà Dambisa
Moyo.
Thật ra cái Chủ nghĩa Xã hội kiểu Tàu (le Socialisme à la chinoise)
này chỉ là phiên bản của Chủ nghĩa Tư bản dã man (Le Capitalisme
sauvage) thời kỳ đầu thế kỷ thứ XIX:
Cần nhắc qua những giai đoạn phát triển của Tư bản Âu Tây:
Thế kỷ thứ XVII-XVIII: Tư bản thương mại (capitalisme marchand):
Các vua chúa thời này nắm toàn quyền phân phát cho những cá nhân hay
những hội đoàn đặc quyền khai thác hầm mỏ, mở lò luyện sắt trong nước
và thông thương với các nước ngoài để kiếm thị trường trao đổi sản phẩm,
vật dụng (Thời kỳ các lò luyện sắt và công ty Đông Ấn). Tư bản thời này
có tính cách cạnh tranh thương mại nhiều hơn là bóc lột.
Thế kỷ thứ XIX: Tư bản công nghiệp (capitalisme industriel):
Tới thời kỳ hậu bán thế kỷ này, sản xuất công nghiệp không ngừng
tăng trưởng đòi hỏi số vốn mỗi ngày một lớn. Giới tư bản tài phiệt, chủ
nhân các phương tiện sản xuất, phải làm sao đạt được tối đa lợi nhuận để
chuyển lại thành vốn. Cách độc nhất để có được tối đa lợi nhuận là:
-- Giảm giá nhân công: Bắt buộc người làm công bán sức lao động của
mình với cái giá rẻ nhất. Đồng thời tùy theo nhu cầu sản xuất, chủ nhân
có toàn quyền mượn hay đuổi người để giảm giá thành sản xuất hơn nữa.
-- Thâu mua nguyên liệu với giá rẻ: Để tiếp tế nguyên liệu, nhân
công và tạo thị trường cho tư bản nước mình, các nước Tây phương đặc
biệt là Anh, Pháp, đem quân xâm chiếm nhiều vùng có tài nguyên trên thế
giới.
Tư bản công nghiệp ở thời kỳ này, dựa vào những quyền lực chính trị
để đàn áp những đòi hòi của người công nhân trong nước và dựa vào chủ
nghĩa đế quốc để chiếm hữu và khai thác tài nguyên những nước bị trị,
đưa ra những chính sách bóc lột, không tuân theo một luật lệ nào cả, nên
có tính cách dã man.
Điển hình của Tư bản dã man phương Tây là chính sách của Đế quốc Pháp cuối thế kỷ thứ XIX.
Thử so sánh đế quốc Pháp cuối thế kỷ thứ XIX với Tàu cộng ngày nay:
Đế Quốc Pháp: 10 triệu Km2 gồm chính quốc (550 000Km2) và các đất đai hải ngoại.
Tàu cộng: 9 736 000Km2. Phát khởi từ lưu vực sông Hoàng Hà cách đây
2200 năm, tộc Hán chiếm lần lần những phần đất phía Nam sông Dương Tử và
Hán hóa hết cả vùng này trong vòng 1000 năm. Những vùng phía Bắc như
Mãn Châu, Mông Cổ, Tân Cương bị nhập vào Trung Quốc từ đời Nguyên, đời
Thanh. Tây Tạng bị chiếm đóng hoàn toàn từ 1959.
Pháp là nước đông dân nhất Âu Châu thời ấy (trừ Nga), hơn cả Mỹ: 40
triệu dân. 49% dân Pháp làm những nghề thuộc về nông, ngư, lâm. 29% là
thợ thuyền. 40% dân Pháp được coi là thuộc thành phần chủ nhân hay sở
hữu chủ (tiểu tư sản theo nghĩa Mácxít), 48% là thợ thuyền. Thợ thuyền
và nông dân làm việc 11-12 giờ/ngày. Luật cấm trẻ em dưới 13 tuổi làm
việc. Từ 13 đến 16 tuổi, không được làm việc quá 10 giờ/ngày. Dân thuộc
địa Pháp khoảng 40 triệu người. Trong số đó Việt Nam chiếm non nửa
(chừng 18 triệu).
Chế độ Cộng hoà Pháp hồi ấy, có tự do báo chí, có 3 quyền phân lập
rõ ràng. Luật pháp dân sự và xã hội được áp dụng ở mọi nơi, chính quốc
cũng như thuộc địa. Không phân biệt người thuộc địa với người chính quốc
nếu có khả năng và bằng cấp ngang nhau. Những viên chức trong bộ máy
hành chánh của Pháp ở Miên, Lào hay ngay cả ở Tân Đảo (Nouvelle
Calédonie), phần đông là người Việt. Cái trớ trêu là dưới thời Pháp
thuộc, người Việt có khả năng, lại tháo vát hơn người Miên Lào, nên
nhiều người di cư qua làm ăn. Nếu không có chiến tranh Việt - Pháp thì 2
xứ này có thể đã bị Việt hoá rồi. Hiện giờ thì ngược lại, những xứ này
đang bị "Tàu hoá", và Việt Nam bị mất sân sau. Nói tóm lại tuy tư bản
Pháp có dã man, nhất là đối với dân các thuộc địa, nhưng so vói cái gọi
là "Kinh tế thị trường XHCN" của Tàu bây giờ thì vẫn là một trời một
vực:
Tàu cộng: 1300 triệu dân. Chính sách Hộ khẩu phân biệt các thành
phần xã hội, thành thị với thôn quê, người Hán với người dân tộc, tạo ra
nhiều giai tầng trong xã hội:
- Giai cấp thượng đẳng là ĐCSTQ với 70 triệu đảng viên. Cho là mỗi gia đình đảng viên gồm 3 người cộng với 2 bên cha mẹ thì số người có liên quan tới ĐCSTQ ít nhất cũng tới 3-4 trăm triệu người.
- Chính cái số 300-400 triệu người này, qua ĐCS, nắm mọi đặc quyền chính trị và kinh tế, đã tạo ra một tầng lớp trung lưu, đa số sinh hoạt ở những thành phố lớn thuộc các tỉnh miền Đông. Khác với tầng lớp trung lưu ở những nước "Tư bản tư nhân" có xu hướng chống đối với quyền hành chính trị và đòi hỏi những quyền tự do dân chủ, tầng lớp trung lưu này có liên hệ kinh tế và chính trị mật thiết với ĐCSTQ nên lại là bức tường thành bảo vệ chế độ cộng sản và hệ thống kinh tế của nó.
- Nếu có những phần tử chống đối đòi tối thiểu tự do dân chủ, thì những phần tử này nằm trong những tầng lớp trí thức, sinh viên, tiểu thương, tiểu công nghệ, làm nghiệp vụ ở các thị thành. Những phần tử này khó có thể đoàn kết với nhau để tạo ra một xã hội dân sự đủ sức làm đối trọng với ĐCSTQ.
- Tầng lớp dưới cùng (bách tính) gồm 900 triệu dân quê (min nong). Trong số này có chừng 650 triệu sống bằng hoa lợi của những mảnh đất nhỏ tí. 250 triệu người không đất sống, chỉ còn cách di cư, chiếm đất của các dân tộc Hồi, Tạng, Mông hay bỏ làng bỏ xóm lên tỉnh làm min gong (dân công). Số dân nửa quê nửa thợ này khoảng chừng 200 triệu người. Có thể coi 250 triệu những người này là những người nô lệ.
- Nhưng còn những người hạng chót có số phận hẩm hưu hơn nữa, là những người dân tộc đang bị tuyệt chủng.
Xã hội Chủ nghĩa "mèo trắng mèo đen" của họ Đặng và những người kế
nghiệp, Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào và nay là Tập Cận Bình là:
1° Mở rộng biên cương:
Năm 1959 "giải phóng" phần đất cuối cùng của Tây Tạng: 1.221.000
Km2. (Đất Tây Tạng nguyên thủy là 2.500.000 Km2, bằng 1/4 Trung Quốc).
Những năm 70-80: rời cột mốc lấn đất phía Bắc Việt Nam.
Những năm 2000: sáp nhập Trường Sa - Hoàng Sa. Chiếm 2/3 Vịnh Bắc
Việt, chiếm toàn thể biển Đông, mở rộng biển Trung Hoa đến Ấn Độ Dương.
Với Tập Cận Bình, tham vọng của Tàu cộng là chiếm hết Biển Đông, đem
Việt Nam trở lại thời quận huyện Giao chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, dưới
quyền cai quản của Tổng đốc tỉnh Quảng Đông vừa mới đi tuần thú phương
Nam.
2° Thi hành chính sách diệt chủng:
- Từ 1949 đến 1979 giết 1.triệu 200 ngàn dân Tây Tạng. Từ 1960 đến 1980 cầm tù 1 triệu người. Nhập cư 7 triệu 500 ngàn người Hán khiến số người Hán đông hơn người Tây Tạng (6 triệu người hiện giờ). Với đường xe lửa Bắc Kinh-Lhassa được thiết lập năm 2006, chỉ chừng vài năm nữa cả Tây Tạng chỉ còn người Hán và người Tây Tạng sẽ bị tuyệt chủng.
- Số người Hán ở Tân Cương và Nội Mông hiện nay đã đông hơn người bản xứ. Số phận bị diệt chủng như dân Tây Tạng khó mà tránh được.
3° Thực thi chủ nghĩa thực dân đế quốc của Tàu lại nhằm chính vào quê hương của bà Dambisa Moyo:
Không biết bà ta có biết là:
Mới chừng 10 năm số người Hán di cư qua Phi Châu đã lên đến 1 triệu
người. Phố Tàu mọc như nấm ở những xứ Phi Châu thuộc Pháp, thuộc Anh khi
trước. Khai thác dầu hoả, quặng mỏ, làm đường xá cầu cống, phá rừng lấy
gỗ, đốt đất làm ruộng, đều là độc quyền của phu Tàu. Dân bản xứ chỉ
đứng nhìn xin chút việc con con như quét dọn, rửa chén... không được làm
bồi làm bếp như với thực dân Anh, thực dân Pháp ngày xưa vì bồi bếp
cũng là người Tàu, y hệt như trong các cơ sở khai thác kinh doanh của
Trung Quốc ở Việt Nam hiện giờ.
Nội trong năm 2008, mậu dịch với các nước Phi Châu đã tăng lên 107
tỷ đô la. Tất nhiên là cũng như ở Việt Nam, thặng dư mậu dịch nghiêng về
phía Trung Quốc: 8 tỷ đô la đổ vào Phi châu năm 2008 để kinh doanh là
tiền bán đồ rẻ tiền của Tàu. Cũng tiền đó Tàu dùng để đấm mõm những lãnh
đạo độc tài tham nhũng Phi châu, mua rẻ tài nguyên khoáng sản cần cho
công nghệ. Chỉ một viên đại úy quèn làm cuộc đảo chính cướp chính quyền ở
Guinée, giết 150 người dân dám đi biểu tình, mà đã được Bắc Kinh hứa bỏ
7 tỷ Đô la để kinh doanh dầu hỏa thì những tay hiện đang lăm le cướp
chính quyền ở Phi châu được Tàu cộng hứa hẹn đến chừng nào! Nói tóm lại,
những xứ Phi châu độc tài tham nhũng diệt chủng nhưng có nhiều tài
nguyên như Soudan, Zimbabwe, Gabon, Congo, Lybye, Centre Afrique,
Mali...dù bị cả thế giới tẩy chay thì Bắc Kinh cũng vẫn sẵn sàng nhẩy
vào.
Để chứng minh là người Tàu đến Phi Châu trước cả thực dân Anh, Pháp,
Bồ Đào Nha, ban Tuyên truyền Trung ương ĐCSTQ còn bịa ra một chuyện
tiếu lâm là một tàu của đô đốc Trịnh Hoà dưới triều đại nhà Minh, trên
đường đi chinh phục năm châu bốn bể bị đắm: 20 thủy thủ trôi dạt vào bờ
biển xứ Kenya (quê cha của Obama), được dân sở tại cho phép định cư nếu
giết được con trăn khổng lồ ăn thịt nhiều người. Con trăn bị giết, 20
người này được ở lại lập gia đình sinh con đẻ cái nên hiện nay có nhiều
người Kenya còn mang máu Tàu (không biết trong số đó có Obama không!).
Có một cô 23 tuổi tên là Sharifu làm test thấy phát hiện ADN Tàu nên
được cấp học bổng theo học y khoa Đại học Nam Kinh (sic).
4° Nếu XHCN kiểu Tàu chỉ sản sinh ra những chuyện tiếu lâm như vậy
thì đỡ cho dân Tàu biết mấy. Nhưng ngoại trừ 300 triệu người thuộc giới
trung lưu, đại gia và đảng viên ĐCSTQ, cuộc đời của hơn 1 tỷ bách tính
Tàu chỉ là một chuỗi dài thảm kịch:
Lương của một kỹ thuật gia, chuyên viên văn phòng có bằng cấp đại học là 2-3 euros/ngày.
Những xí nghiệp nhà nước không sinh lợi bị đóng cửa dành chỗ cho
những xí nghiệp tư nhân, sa thải (xia gang) cả mấy chục triệu công nhân
(Từ 1998 đến 2003 đã 60 triệu người bị đuổi). Những người này sống vất
vơ vất vương khi sài hết tiền bồi thường vài ngàn yuan (11 yuan=1 euro).
Đặng Tiểu Bình và Giang Trạch Dân đã phát minh ra "người - Kleenex",
dùng xong rồi vứt đi.
Số phận của những thợ mỏ than còn thảm thương hơn nhiều: 80% điện lực
đến từ than đốt. Mỗi năm 20 ngàn thợ mỏ bị chết (bằng 80% của cả thế
giới). Lương cao nhất là 80 euros/tháng) trong những mỏ nhà nước. Lương
thợ các mỏ tư chỉ bằng một nửa và số tử vong cũng gấp đôi.
Trung Quốc rêu rao cùng thế giới là đã vượt Nhật và trở thành cường
quốc kinh tế mạnh nhất thế giới chỉ đứng sau Mỹ. Các nhà kinh tế gia
trên thế giới đều cúi đầu bái phục sức tăng trưởng kỳ diệu của nền kinh
tế Trung Quốc mà không biết là sở dĩ Trung Quốc trở thành công xưởng của
cả thế giới là vì XHCN kiểu TQ đã bóc lột đến xương tủy sức lao động
của 200 triệu min gong:
Ở mỗi góc đường phố các thành thị lớn đều có "Chợ Lao động". Những
người họp chợ giơ cao tấm bảng đề nghề nghiệp của mình: thợ điện, thợ
nề, thợ máy, thợ may, phu khuân vác v.v... Xưởng máy nào, công trường
nào muốn mướn cứ việc ra "chợ người" này, tha hồ mặc cả lựa chọn, giống
hệt như chợ nô lệ ngày xưa. Ngày làm việc bắt đầu từ 7 giờ rưỡi sáng cho
tới 12 giờ đêm. Ở chui rúc 4, 5 người trong một xó gần nơi làm việc.
Lương trả từng ngày không có giao kèo. Ốm đau hay bị tai nạn lao động
ráng mà chịu. Chủ muốn đuổi lúc nào cũng được. Với số lương trung bình
70 euros/tháng, phải trả mỗi tháng 10 euros tiền thuê nhà, 5 euros thuế
thổ trạch, thuế hốt rát, thuế chở rác. Nhưng trước khi được lên tỉnh bán
sức lao động còn phải nộp cho cường hào làng mình tiền phí tổn giấy
chứng nhận được ra khỏi làng, giấy chứng minh thư, giấy chứng nhận độc
thân, giấy chứng nhận sinh đúng tiêu chuẩn (con một). Ngoài ra còn phải
đặt tiền thế chân cho chủ, tiền giấy cư trú tạm thời và thẻ làm việc. Cả
thảy là mất toi 2 tháng lương trước khi có việc.
Suy thoái kinh tế toàn cầu không làm giảm lợi nhuận tư bản ĐCS Tàu mà
ngược lại: mỗi năm thêm 14 triệu "min gong" cộng thêm 24 triệu người
thất nghiệp, làm giá nhân công rẻ như bèo. Ngoài ra còn thêm một số con
nít thôn quê phần nhiều là con gái, bị cha mẹ gửi lên tỉnh làm "min
gông" lậu. Số phận con gái sinh ra thật là thê thảm: Ở nhà quê nếu sinh
con đầu là gái được sinh lần thứ hai. Nhưng nếu chẳng may lại sinh con
gái thì chỉ có nước phá thai hay bóp cổ chết để hi vọng còn sinh được
con trai lần nữa. Nếu may mà đứa con gái thứ hai còn sống sót được thì
cũng như là không có ở trên đời vì không có giấy khai sinh. Lớn lên một
chút 13-14 tuổi là bị gửi lên tỉnh làm khoán bất cứ công việc gì ở những
xưởng lậu đầy ô nhiễm, kiếm 1-2 euros/ngày 15 giờ.
Thành quả của CNXH kiểu Trung Quốc là: 10% người giầu nhất ở thành
thị chiếm hữu 45% của cải của cả nước. 10% người nghèo nhất chia nhau
1,4%. Số người nghèo (lợi tức dưới 75 đô la/năm) đã lên đến hơn 100
triệu người. Nhưng số tỷ phú đô la cũng tăng lên và hiện nay đã vượt
Pháp. Còn triệu phú đô la thì chỉ thua Mỹ.
Chủ nghĩa Xã Hội Tư bản man rợ này có triển vọng bền vững vì những lí do sau đây:
1° Tư bản Âu châu Thế kỷ XIX không thể tiếp tục tăng lợi nhuận bằng
cách bóc lột nhân công được, vì sự cạnh tranh giữa các nước tư bản với
nhau, vì công nghiệp tiến triển đòi hỏi nhiều nhân công có trình độ.
Những người này biết đoàn kết lập những công đoàn có tính cách siêu quốc
gia khiến tương quan lực lượng người sản xuất và người nắm phương tiện
sản xuất lần lần cân bằng nhau. Đồng thời ý tưởng công bằng của Cách
mạng Pháp và lý tưởng tương thân tương ái của đạo Phản thệ
(Protestantisme) vẫn thấm nhuần trong tâm thức nhiều người: Người Pháp
đòi hỏi sự công bằng xã hội. Người Anh Mỹ coi làm giầu là để có phương
tiện giúp đỡ người nghèo. Những ý tưởng này không bao giờ có trong tư
tưởng Khổng Mạnh của Tàu cả. Người Tàu coi "Lộc" là trên hết.
2° So với thời Mao, dầu sao đời sống của 900 triệu dân quê cũng khá
hơn: Trước hết là được tự do khai khẩn mẩu đất của mình nên không bị
chết đói. Hai trăm triệu "dân công" lên tỉnh kiếm việc làm cũng có thể
gửi chút tiền về nuôi cha mẹ vợ con. Chính sách thực dân chiếm đất người
dân tộc cũng tạo đất sống cho người Hán và thổi phình óc Đại Hán tự tôn
tự đại. Vì vậy không có lí do gì mà dân quê nổi loạn chống chế độ cả.
Và chống cũng không được vì chế độ "Tư bản Cộng sản" có hậu thuẫn vô
cùng mạnh mẽ là 70 triệu đảng viên và hơn 3 trăm triệu người thuộc giới
trung lưu thành thị. Với sức tăng trưởng 9-10% một năm, PIB/đầu người
của tầng lớp này sẽ tiếp tục tăng và có khả năng vài năm nữa bằng một
nửa PIB/đầu người của Tây Âu: Trung Quốc lúc đó sẽ trở thành cường quốc
kinh tế nhất nhì trên thế giới nhưng cũng là một nước tư bản người bọc
lột người man rợ nhất trong lịch sử loài người.
3° Chủ nghĩa "Tư bản Cộng sản Tàu" này cũng không bao giờ chuyển hoá
về hướng "dân chủ xã hội" hay "dân chủ khai phóng" như ở Tây phương vì
một lí do giản dị là như vậy không thể tiếp tục bóc lột được nguồn nhân
lực vô tận hơn 1 tỷ người để hạ giá thành sản xuất và tràn ngập thị
trường thế giới đồ rẻ tiền của mình. Không có thặng dư xuất nhập, tăng
trưởng của Trung Quốc sẽ giảm ít nhất là 40% và chế độ có nguy cơ bị mất
ổn định vì sẽ mất hậu thuẫn của tầng lớp trung lưu thành thị.
4° Tư bản cộng sản còn được sự đồng loã của 1 số tư bản phương Tây:
Di chuyển sản xuất qua Tàu, đóng cửa cơ sở sản xuất những đồ thực dụng
trong nước, là phương cách hay nhất tránh được đòi hỏi tăng lương của
công nhân. Chỉ sản xuất đồ xa xỉ phẩm để phục vụ thị trường mỗi ngày một
lớn của 300 triệu trung lưu thành thị và đảng viên ĐCSTQ là thu được
nhiều lợi tức mà không phải mướn nhiều nhân công. Hậu quả là tỉ số thất
nghiệp ở những nước Tư bản dân chủ - xã hội ở Tây phương sẽ mỗi ngày một
cao.
5° Tiêu thụ đồ Tàu nhiều nhất là Mỹ. Chế độ XHCNTQ cho phép các tay
tài phiệt trong Đảng, đáng lẽ dùng số tiền thặng dư mậu dịch đó để nâng
cao đời sống 900 triệu dân quê thì lại lấy 850 tỷ Đô la thặng dư đó mua
trái phiếu kho bạc của Mỹ, cho Mỹ vay để Mỹ dùng tiền đó mua đồ của
mình. Rút cục tiền dân Tàu lại dành cho Mỹ tiêu. Tư bản Mỹ, Tàu đề huề
với nhau, chế độ "Xã hội Tư bản Cộng sản Tàu" sẽ bền vững đời đời.
Kết luận
Cái gọi là Kinh tế thị trường Xã hội chủ nghĩa của Tàu cộng chỉ là
bộ mặt gớm tởm nhất của nền kinh tế tư bản thực dân các nước Tây phương
cách đây hơn 100 năm. Một chế độ tư bản man rợ như vậy mà một nữ tiến sĩ
"tháp ngà" lại muốn các nước đang phát triển tôn lên làm thần tượng thì
thật khó mà hiểu nổi nếu không nghĩ, hoặc là cái bà tiến sĩ này không
hề bước chân đến một xứ Phi châu nào đang bị thực dân Tàu khai thác,
hoặc có lẽ bà ta cũng bị tiền Tàu đấm mõm.
Phong Uyên