Trần Văn Chánh
Bản chất của báo chí là phải được tự do. Suy cho cùng, nếu không được
tự do, báo chí sẽ trở nên kém hữu ích, có hại, hoặc thậm chí mị dân.
Trong trường hợp này, báo chí không giúp nâng cao trình độ dân trí đủ để
người dân nhận thức sáng suốt những vấn đề cơ bản liên quan quyền lợi
thiết thân cùng nghĩa vụ của họ, trong bất kỳ xã hội nào đặt nền tảng
trên nguyên tắc người dân được quyền làm chủ.
Thomas Jefferson (1743-1826), tổng thống thứ 3 của Hoa Kỳ, người
được chọn để dự thảo bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776, đã từng phát biểu
một câu rất nổi tiếng liên quan vai trò của báo chí trong đời sống quốc
gia: “Nếu bắt tôi phải chọn lựa chúng ta nên có một nền chính quyền
không báo chí hay có một nền báo chí không chính quyền thì tôi không hề
do dự chọn lựa ngay cái thứ hai”.
Từ rất lâu, ở nhiều nước trên thế giới, báo chí thường được ví như
“cơ quan quyền lực thứ tư” (đệ tứ quyền), nhân tố quyết định để có được
một xã hội công bằng, giàu mạnh, và điều xác tín này hầu như không ai có
thể nói khác được.
Hơn nửa thế kỷ trước, trong bài báo 10 chính sách Việt Minh viết theo lối diễn ca, cựu chủ tịch nước Hồ Chí Minh đã từng nói:
Hội hè, tín ngưỡng, báo chương,
Họp hành, đi lại có quyền tự do.
Như vậy, quyền tự do báo chí hẳn phải là mục tiêu của mọi cuộc vận
động cách mạng để đạt được xã hội dân chủ. Cũng vì vậy mà Hiến pháp nước
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam qua nhiều lần sửa đổi (với lần sau
cùng thông qua ngày 28.11.2013, có hiệu lực từ 1.1.2014) trước sau vẫn
khẳng định quyền tự do báo chí, ghi rõ tại điều 25: “Công dân có
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập
hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.
Tính đến khi Luật báo chí sửa đổi, bổ sung của Việt Nam ra đời năm
1999 thì ở Điều 2, vấn đề quyền tự do ngôn luận/ báo chí lại một lần nữa
được xác nhận rõ thêm: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân
thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để
báo chí phát huy đúng vai trò của mình. Báo chí, nhà báo hoạt động
trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ; không một tổ chức, cá
nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động. Không ai
được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để
xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân. Báo chí không bị
kiểm duyệt trước khi in, phát sóng”.
Xét lịch sử báo chí trên toàn thế giới, người ta thấy hai chữ “tự
do” luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt thể hiện trong hầu hết nếu không muốn
nói tất cả các bộ luật báo chí khắp nơi và từ xưa đến giờ. Mác cũng nói
đạo đức của báo chí là tự do, và quan niệm báo chí chính là sự thể hiện
cái tinh thần, con mắt và trái tim của nhân dân.
Luật báo chí năm 1881 của Pháp (áp dụng chung cho cả những nước
thuộc Pháp, gồm cả Việt Nam) chỉ là một đạo luật quy định quyền tự do
ngôn luận. Theo đúng truyền thống Cách mạng Pháp, các nhà lập pháp năm
1881 cho rằng: “Con người trung bình đủ lương tri để tự mình phân biệt chân ngụy giữa những mớ tin tức và bình luận trái ngược…”.
Tuy nhiên trên thực tế, giai cấp thống trị và một số nhà độc tài vẫn
thường tìm cách hạn chế báo chí cách này cách khác với đủ mọi lý do.
Bất cứ nhà độc tài nào cũng cho rằng chỉ có mình hoặc phe đảng mình mới
thực sự nắm vững nguyện vọng của dân chúng và có sứ mạng thực hiện các
nguyện vọng ấy theo kiểu riêng của họ; sự bền vững của chế độ là trọng,
còn tự do của cá nhân thì không đáng kể. Nhà độc tài Mussolini (người Ý,
1883-1945) đã từng tuyên bố: “Báo chí là một bộ phận của chế độ và một sức mạnh để phục vụ chế độ” (la presse est un élément du régime et une force à son service).
Kinh nghiệm thực tế ở mọi nước đều cho thấy báo chí luôn được tự do
và cũng luôn bị hạn chế. Chẳng hạn một nước đang tuyên chiến với nước
khác thì dù đang theo chính sách tự do cũng không thể để cho nhà báo
trong nước tự do sách động dân chúng đi theo đối phương được. Đó là
chính trị, cũng là đời thường, như một lẽ tự nhiên không có gì phải
tranh cãi. Điều đáng nói là đôi khi trong thời bình, một số nhà chính
trị độc tài cũng tìm cách hạn chế báo chí bằng nhiều thủ đoạn tinh vi,
mặc dù ngoài miệng họ vẫn luôn nói đến tự do và quyền lợi của công
chúng. Thường khi đây lại là vấn đề có liên quan đến tầng lớp thống trị
đặc quyền như Mác đã từng viết: “Vấn đề không phải là cần biết có
quyền tự do báo chí hay không vì quyền này vẫn có. Vấn đề chính là cần
biết quyền tự do báo chí là đặc quyền của một thiểu số cá nhân hay đặc
quyền của con người”.
Trên cơ sở của quyền tự do ngôn luận, báo chí phải đồng thời giải
quyết ổn thỏa hai mối quan hệ vừa đối với công chúng vừa đối với các nhà
đương cuộc. Trong quan hệ thứ nhất, tự do báo chí còn là tự do của độc
giả có quyền được biết tin tức đầy đủ và chính xác, do vậy nhà báo luôn
bị một mối ràng buộc thuộc bản chất nghề nghiệp là không phải muốn dùng
tờ báo của mình để loan tin gì cũng được, hoặc muốn nói gì thì nói.
Trong quan hệ thứ hai (với chính quyền), vì bản chất nghề nghiệp là phải
luôn bênh vực quyền lợi của công chúng, nhất là đối với tầng lớp lao
động nghèo khổ bị áp bức, nhà báo luôn coi quyền lợi của nhân dân là
luật pháp tối thượng hơn cả mọi luật pháp, và đôi khi còn phải có can
đảm phê phán những luật lệ đương thời, hoặc chủ trương, chính sách, hành
động sai trái của các nhà chức trách. Ở khắp mọi nơi và từ xưa đến giờ,
chưa hề có một nhà báo nào được gọi tiến bộ và được công chúng tin cậy
mà lại chỉ chuyên xu phụ tô điểm cho chính sách sai lầm của các nhà cầm
quyền. Những nhà báo như vậy đâu đâu cũng bị đặt cho cái tên chung quen
thuộc là “bồi bút”, bị thiên hạ xem thường.
Cũng có hạng nhà báo vì cuộc sống cá nhân hay vì nhiều loại lý do
khác nữa sẵn sàng phục vụ cho các chính quyền mị dân bằng cách viết
những bài báo mà mới xem qua thì có vẻ phê phán kịch liệt những sai trái
của các nhà đương cuộc nhưng thực tế lại chỉ đụng đến những phần râu
ria không thuộc bản chất của những vấn đề cần nghiên cứu giải quyết tận
gốc rễ. Điều tai hại này khiến cho một bộ phận dân chúng ngây thơ hồn
nhiên tưởng rằng tình trạng tiêu cực của các nhà chức trách sắp bị triệt
tiêu rồi mà không dè làm như vậy chỉ là một cách thông hơi để giúp duy
trì lâu hơn cho tình trạng bê bối tiêu cực. Nếu những nhà cách mạng cũng
là nhà báo tiền phong tiền bối như Mác, Lênin, Hồ Chí Minh, Nguyễn An
Ninh, Cù Thu Bạch, Lỗ Tấn… mà cũng làm báo kiểu đó thì các tầng lớp
thống trị đương thời họ chắc chắn sẽ hoan nghênh họ hết sức, và họ cũng
không thể góp phần tạo ra những tình huống cách mạng thuận lợi để đấu
tranh cho những người cùng khổ.
Ngược lại, mọi chính quyền sáng suốt và vì dân luôn biết lợi dụng
báo chí theo một chiều khác để phát hiện và sửa chữa những sai lầm của
mình trên căn bản lý thuyết và đường lối, nhờ vậy vừa duy trì được lý
tưởng của chế độ vừa tranh thủ được sự ủng hộ và tình cảm chân thực của
mọi tầng lớp nhân dân. Lênin thường biết chú ý lắng nghe ý kiến của
những người đối lập, thậm chí đọc cả các sách báo của kẻ thù viết về
cuộc cách mạng ở tháng 10 Nga (năm 1917), và tự nhủ: “Những người này
đã giúp đỡ chúng ta rất nhiều. Họ nhắc chúng ta chú ý đến tất cả những
sai lầm và hành động ngốc nghếch mà chúng ta đã mắc phải. Chúng ta phải
cám ơn họ” (Lênin, Về văn học nghệ thuật, NXB Văn Hóa Nghệ Thuật, Hà Nội, 1963, tr. 114).
Đã hẳn quyền tự do báo chí là không thể chối cãi, nhưng cái cách thể
hiện tự do thì trên thực tế còn tùy thuộc vào truyền thống dân chủ và
hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi nước. Ở nhiều nơi, quyền tự do báo chí
đương nhiên được công nhận trên Hiến pháp, nhưng các viên chức có trách
nhiệm thực thi trực tiếp thường không chỉ ra được chỗ giới hạn rõ rệt
khiến các nhà báo dù có nghĩa khí đến đâu cũng không biết hành động viết
lách ra sao cho phải, để vừa không bị chụp mũ (“phản động”, “diễn biến
hòa bình”…), vừa không có mặc cảm tội lỗi với công chúng mà vẫn phụ lực
được cho các nhà chức trách trong công cuộc hợp tác xây dựng xứ sở. Để
khắc phục tình trạng này, các điều khoản ghi trong luật báo chí cần phải
rõ ràng minh bạch hơn nữa, tuyệt đối tránh những câu chữ mù mờ lưỡng
nghĩa mà ai muốn giải thích và bắt chẹt ra sao cũng được. Có luật rõ
ràng rồi, nếu ai làm trái luật thì cứ đem ra tòa xét xử.
Tuy nhiên, liên hệ với tình trạng thực tế Việt Nam, cho mãi tới hiện
nay, điều khó khăn nhất đối với một nhà báo vẫn là phải luôn suy lường,
cảnh giác để xác định đâu là cái lằn ranh hay “vùng cấm” vô hình buộc
mình phải tự hạn chế, tự biên tập lấy bài trước khi bị ông tổng biên tập
cắt xén vào những chỗ tâm đắc nhất, vì việc này ngoài kinh nghiệm thực
tế ra, không có một quy chuẩn hay sách vở, luật lệ nào chỉ rõ. Riêng cái
gọi “vùng cấm”, hay thứ tương tự là những “vấn đề nhạy cảm”, trước sau
vẫn mờ mờ ảo ảo, như chuyện tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc, trước
đây không ai bảo ai bị coi là vấn đề nhạy cảm, thậm chí vùng cấm, nay
các nhà báo lại đồng loạt nói huỵch toẹt ra, bình luận đủ thứ. Giả định
cứ để cho được tự do hơn, vấn đề có lẽ đã biến chuyển theo những hướng
khác, thuận lợi cho phía Việt Nam hơn, vì dân phải “biết” thì mới “bàn”
được, từ đó phát huy quyền làm chủ và tinh thần trách nhiệm, cùng nhau
tính kế bảo vệ Tổ quốc.
Một số người vì không muốn vướng vào những sự phức tạp tế nhị như
thế đã tự động bỏ nghề, hoặc chuyển qua chỉ viết cho các báo mạng, để cố
nói lên các sự thật. Đơn giản bởi vì nhà báo chân chính vốn không chỉ
yêu sự thật mà còn phải ra sức bảo vệ sự thật nữa. Đây vừa là trách
nhiệm vừa là lương tâm của người cầm bút, thể hiện một cách cụ thể trong
quá trình viết lách, hoặc biên tập và quyết định bài vở của người khác,
trên cơ sở lấy lợi ích của nhân dân làm cốt mà không hề khuất phục bất
kỳ một thế lực nào. Nếu tính trung thực luôn gắn liền với lòng can đảm
thì lương tâm và trách nhiệm cũng thế, không thể tách rời nhau được. Vì
vậy, lời phát biểu sau đây của nhà báo Pháp nổi tiếng Jean Lacouture
được trích dẫn từ bản tiếng Việt của tạp chí Người đưa tin UNESCO (tháng 9.1990, tr. 13) thật đáng để cho mọi nhà báo suy gẫm, nhân Ngày Nhà báo Việt Nam 21.6 năm nay: “Nhà
báo là một sinh vật có một lương tâm mà không một ông trùm báo chí nào,
không một hệ tư tưởng thống trị nào, không một sự đồng lõa với phe đảng
nào khuất phục được hoàn toàn”.
21.6.2014
Nguồn: Văn Hóa Phật Giáo, số 204 (1.7.2014)