Giao Lưu
Đến nay đã 50 năm kể từ ngày đệ nhất cộng hòa sụp đổ cùng với cái
chết của 2 ông Diệm, Nhu. Đã có quá nhiều tài liệu, nhân chứng nói về đề
tài này. Về nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chế độ và cái chết của 2
ông thì dường như đã rõ ràng, dĩ nhiên phía quốc gia có lý giải khác với
phía CS và phía Mỹ. Tựu trung lại thì nguyên nhân cơ bản mà các bên đều
có sự thống nhất là do ông Diệm đã tạo nên chế độ độc tài gia đình trị
(bao gồm cả những người thân với người trong gia đình), tôn giáo trị.
Trong khuôn khổ bài viết, tôi muốn nói đến cơ hội bị bỏ lỡ của gia đình
ông Diệm, của người Mỹ và của những người quốc gia trong việc chiến
thắng phe CS, tức VNDCCH. Suy cho cùng đó mới là mục đích cuối cùng cho
sự can thiệp của Mỹ vào VN. Việc thành lập QGVN, nước VNCH, thủ tướng
rồi tổng thống Diệm, cũng chỉ vì mục đích tối hậu là chống cộng. Tiếc
rằng tất cả các bên kể trên đều không vì mục đích cuối cùng đó, để tuột
mất cơ hội, mà sau 50 năm, tôi cho là cơ hội duy nhất có thể chiến thắng
hay ít nhất là không thua phe CS.
Để thắng cộng sản thì phải giống cộng sản
Lịch sử cho thấy, ngoài việc lật đổ chế độ CS bằng cách mạng màu, phi
bạo lực kiểu Đông Âu và nước Đức thì chỉ có phát xít Đức đã từng chiến
thắng Liên Xô, anh cả hùng mạnh nhất của các nước CS, trong một thời
gian ngắn, chiến thắng gần như tuyệt đối bằng bạo lực nhưng rút cuộc vẫn
thất bại thảm hại. Phát xít Nhật hùng mạnh chiếm gần hết châu Á nhưng
vẫn thua quân LX và buộc phải hòa hoãn với LX để rảnh tay xâm chiếm các
nước khác. Ngoài ra, chính CS mới trị được CS bằng bạo lực như ta đã
thấy khi quân đội LX đàn áp sự nổi dậy ở các nước Đông Âu, CS VN chiến
thắng CS Campuchia, CS TQ "dạy cho CSVN 1 bài học" năm 1979. Nói cách
khác, trong thời kỳ cực thịnh của chế độ CS, từ khi bắt đầu có chiến
tranh lạnh 1950 đến đến khi CNCS bộc lộ những khiếm khuyết không thể hàn
gắn khoảng 1985, thì phe tư bản không thể giành chiến thắng trước phe
CS ở bất cứ quốc gia nào. Chiến tranh Triều Tiên được coi như hòa giữa 2
phe. Khi CS Đông Âu sụp đổ thì có thể hiểu là các quốc gia CS đó tự sụp
đổ là chính chứ không hề có tấn công bạo lực từ phía tư bản. Trong 1
bài viết khác, phân tích về Nguyên nhân thắng và bại trong chiến tranh
Việt Nam, tôi đã cho là chế độ CS là tối ưu cho cỗ máy chiến tranh. Vậy
có thể kết luận là chỉ có CS mới thắng được CS bằng bạo lực, suy rộng ra
thì muốn thắng CS thì phải giống CS. Chúng ta đều thấy phát xít Đức đã
từng thắng LX cũng là do chủ nghĩa phát xít có nhiều đặc điểm giống với
chủ nghĩa CS, đều là chế độ toàn trị, nhưng CS toàn trị ở cấp độ cao hơn
và toàn trị cấp cao đã chiến thắng toàn trị cấp thấp
Sự tương đồng giữa đệ nhất cộng hòa và VNDCCH
Anh em ông Diệm đã xây dựng chế độ đi rất đúng hướng để chống CS, đó
là phải giống CS. Lưu ý là phân tích trên của tôi ở thời điểm hiện nay,
sau 50 năm, lịch sử đã cho chúng ta thấy là CS không thể thua bởi dân
chủ, tư bản, còn vào thời điểm 1954-1975 thì không ai dám chắc điều đó.
Như vậy tầm nhìn của ông Diệm, có lẽ chính xác hơn là ông Nhu, thật đáng
ca ngợi, tiếc rằng 2 ông không đủ khéo léo, mềm dẻo vận hành quốc gia
để tồn tại chứ chưa nói là để chống cộng. Người Mỹ và những người quốc
gia chống ông Diệm cũng không nhận ra tầm nhìn đó của anh em ông Diệm,
để có thể hòa hoãn vì mục đích cuối cùng là chống cộng. Vậy chế độ ông
Diệm và chế độ CS miền Bắc có điểm gì tương đồng?
Chế độ chính trị
Miền Bắc theo chế độ CS toàn trị, miền Nam theo chế độ độc tài, gia
đình trị, tôn giáo trị. Hẳn các bạn đều biết, chế độ toàn trị có rất
nhiều điểm tương đồng với chế độ độc tài. "Tôn giáo" của miền Bắc là
CNCS, chúa là Mác còn tôn giáo của miền Nam là Thiên chúa giáo. Miền Bắc
theo chế độ độc đảng, nói đúng hơn là 1 đảng lãnh đạo là đảng Lao Động
(CS), với triết thuyết là triết học Mác – Lê nin, có 2 đảng là Xã hội và
Dân chủ làm vì. Miền Nam cũng gần như vậy với đảng Cần lao Nhân vị lãnh
đạo tuyệt đối, với thuyết Cần lao nhân vị, 1 số đảng phái quốc gia vẫn
tồn tại nhưng không được nắm quyền.
Lãnh tụ tinh thần
Khác với chế độ dân chủ, chế độ độc tài, toàn trị nào cũng cần phải
có lãnh tụ. Miền Bắc có ông Hồ Chí Minh, miền Nam có ông Ngô Đình Diệm.
Ông Hồ là người có uy tín cao với dân Bắc và 1 bộ phận dân Nam, có công
đánh đuổi thực dân Pháp. Ông Diệm cũng có uy tín cao với dân Nam và 1 bộ
phận dân Bắc do có xuất xứ quan to triều đình từ khi còn rất trẻ, cũng
có tiếng về đả thực bài phong. Hai ông đều có thời gian bôn ba nước
ngoài "tìm đường cứu nước" và vận động hành lang để giành quyền lực. Tuy
hai chế độ không đội trời chung nhưng nhiều tài liệu cho thấy ông Hồ và
ông Diệm, về mặt cá nhân, vẫn kính trọng nhau cho dù bộ máy tuyên
truyền của mỗi phe đều đả kích lãnh tụ đối phương không ra gì. Khi ông
Diệm bị Việt Minh bắt thì ông Hồ đã ra lệnh thả.
Cả ông Diệm lẫn ông Hồ đều chỉ là lãnh tụ tinh thần nhiều hơn là
chính trị gia điều hành đất nước. Ông Hồ bị vô hiệu hóa bởi Lê Duẩn, Lê
Đức Thọ trong khi ông Diệm bị lấn quyền bởi những người anh em là ông
Nhu, ông Cẩn, ông Thục. Về cuộc sống cá nhân 2 ông cũng có những điểm
tương đồng để dễ dàng được tuyên truyền trở thành lãnh tụ. Hai ông đều
không có vợ, 1 cách chính thức, có cuộc sống khá giản dị so với chức vụ,
tư cách đạo đức được nhiều người kính trọng, không có điều tiếng về
tham nhũng (hiếm gặp ở các lãnh tụ độc tài).
Những cánh tay nối dài của đảng cầm quyền
Chế độ toàn trị có 1 đặc điểm nhận biết là người ta muốn quản lý toàn
bộ đời sống vật chất, tinh thần của người dân thông qua đảng cầm quyền
các “cánh tay nối dài” len lỏi vào mọi ngõ ngách của xã hội. Ở miền Bắc,
đảng CS có chi bộ đến cấp xã, xóm, trong quân đội, công an. Đảng có tổ
chức xã hội vệ tinh như hội Phụ nữ, đoàn Thanh niên CS, đội Thiếu niên
tiền phong, Mặt trận tổ quốc, Hội sinh viên…Tất cả đều do đảng CS chi
phối. Miền Bắc quản lý “phần hồn” của người dân bằng duy nhất triết
thuyết là CN Mác.
Tuy không phải toàn trị như miền Bắc nhưng chế độ ông Diệm cũng đã
được ông Nhu xây dựng theo 1 mô hình khá tương đồng với bộ máy toàn trị.
Ông Nhu lập nên đảng Cần lao Nhân vị với thuyết Cần lao, đảng Cần lao
cũng len lỏi tương đối sâu vào các cấp chính quyền, quân đội, cảnh sát.
Đảng cũng có những tổ chức vệ tinh như Phụ nữ liên đới, Thanh niên cộng
hòa. Miền Nam mong muốn quản lý phần hồn của nhân dân thông qua Thiên
chúa giáo và thuyết Cần lao. Khốn thay là cả 2 thứ đó không thể sử dụng
để tuyên truyền hiệu quả, sâu rộng được như chủ nghĩa Mác.
Tinh thần dân tộc và sự phụ thuộc hạn chế vào đồng minh
Miền Bắc đã tuyên truyền kích động tinh thần yêu nước, tinh thần dân
tộc rất thành công cho dù vẫn phụ thuộc lớn vào viện trợ nước ngoài do
chỉ nhận viện trợ nước ngoài, không để lính nước ngoài tham chiến trực
tiếp, chỉ huy cách trận đánh mà chỉ nhận chuyên gia nước ngoài vào huấn
luyện. Miền Bắc không để các đồng minh can thiệp sâu vào chính trị trong
nước.
Miền Nam cũng như vậy, ông Diệm không đồng ý để quân đội Mỹ tham
chiến trực tiếp, chỉ nhận viện trợ và cố vấn. Mỹ cũng không thể can
thiệp sâu vào chính trị VNCH.
Cách thức thu phục nhân tâm
Miền Bắc tạo được sự chính danh để cầm quyền thông qua việc giương
cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, chống phong kiến và thu phục nhân tâm
của đa số dân thông qua cải cách ruộng đất, cướp ruộng đất, tài sản của
người giàu chia cho người nghèo.
Trong khi đó ông Diệm cũng giương cao ngọn cờ “Đả thực bài phong”
thông qua việc đưa yêu sách với người Pháp đòi quyền tự chủ cho người
Việt từ khi còn là thượng thư bộ Lại. Sau đó ông tìm mọi cách để đuổi
thực dân Pháp khỏi miền Nam sau năm 54 bằng cách triệt hạ các tổ chức,
cá nhân thân Pháp như các giáo phái, Bình Xuyên, tướng Nguyễn Văn Hinh
và đỉnh điểm là cuộc trưng cầu dân ý để phế bỏ Quốc trưởng Bảo Đại. Sau
đó ông có công lớn trong việc định cư cho gần 2 triệu đồng bào Bắc di
cư. So với dân số miền Nam lúc đó khoảng hơn 10 triệu người thì ông đã
chiếm được lòng của gần 20% dân số thông qua việc này. Ngoài ra, ông
Diệm cũng có chương trình Cải cách điền địa, chính quyền mua lại ruộng
đất của người giàu để chia cho người nghèo, xóa bỏ chế độ nông nô.
Đàn áp đối lập, hạn chế tự do ngôn luận
Đây là hệ quả của chế độ toàn trị và độc tài. Cả 2 miền đều có sự đàn
áp đối lập và hạn chế tự do ngôn luận. Miền Bắc đàn áp mầm mống của sự
phản kháng từ trong trứng nước thông qua cải cách ruộng đất và với “thế
trận an ninh nhân dân”, mọi người dân đều là tù nhân dự khuyết. Miền Nam
có Tố cộng diệt cộng và luật 10/59 và đàn áp đảng phái chính trị, tôn
giáo đối lập.
Cơ hội bị bỏ lỡ
Chúng ta đã thấy, thực tế là với các điểm tương đồng kể trên, chính
quyền VNDCCH đều vận dụng hiệu quả hơn chính quyền đệ nhất cộng hòa. Chế
độ toàn trị là sự phát triển cao hơn chế độ độc tài. Chế độ độc tài gia
đình trị chỉ giao quyền lực cho 1 nhóm rất nhỏ trong gia tộc, trong khi
đó chế độ CS giao quyền cho 1 nhóm lớn hơn là các đảng viên CS, vì vậy
chế độ toàn trị quản lý sự đồng thuận của người dân (tự nguyện hay cưỡng
bức) 1 cách hiệu quả hơn. Miền Bắc không bao giờ có đảo chính, vì Bộ
chính trị, Ban bí thư luôn biết quân đội, công an đang nghĩ gì, muốn gì
và không muốn gì. Trong khi đó đảng Cần lao chưa có đủ chân rết chui sâu
vào bộ máy quân đội. Miền Bắc không có khái niệm quân đội phi chính
trị, còn miền Nam thì quân đội dễ dàng đánh lẫn nhau vì bất đồng quan
điểm.
Lãnh tụ Hồ Chí Minh, công bằng mà nói, chắc chắn được lòng dân nhiều
hơn lãnh tụ Ngô Đình Diệm. Ông có xuất thân con quan nhỏ, có cuộc sống
giản dị, gần gũi với quần chúng (chiếm số đông). Trái lại, ông Diệm với
xuất thân quan to triều đình với lối sống quan cách xa rời quần chúng
hơn, ông Đả thực bài phong trong khi vẫn bị mang tiếng là cộng tác với
Pháp và đã từng làm quan triều đình.
Cánh tay nối dài của đảng CS làm việc hiệu quả hơn cánh tay nối dài
của đảng Cần lao nhiều lần. Các tổ chức này của đảng CS chui được vào
mọi ngõ ngách của xã hội, tuyên truyền cho từ đứa trẻ lên 5 cho đến cụ
già 80 tuổi, phát hiện sớm mọi mầm mống phản kháng để triệt hạ. Trong
khi các tổ chức tương tự của đảng Cần lao nhiều khi chỉ mang tính hình
thức.
Triết học Mác Lê nin, triết thuyết của đảng CS chắc chắn chặt chẽ,
chi tiết do được đúc rút từ kinh nghiệm đấu tranh cách mạng của CS toàn
thế giới. Trong khi Thuyết Cần lao là do ông Nhu nghĩ ra, không hề dễ
hiểu và gần gũi với quần chúng, chưa được kiểm chứng qua thực tế nên rất
khó cho công tác tuyên truyền.
Tuy không hề muốn nhưng ông Diệm vẫn bị Mỹ chi phối tương đối nhiều
trong chính trị, nó thể hiện ngay từ việc ông được lên nắm quyền, ông
giành chính quyền từ Bảo Đại, củng cố quyền lực bởi đàn áp các tổ chức
đối lập. Tất cả đều có bàn tay của Mỹ. Trong khi đó, Liên Xô và Trung
Quốc không dựng lên được chính quyền HCM, việc giành chính quyền, đàn áp
đối lập đều do ông HCM và các cộng sự thực hiện dựa trên nền tảng của
CNCS. Do vậy, tính chính danh của VNDCCH cao hơn VNCH. Nói cách khác,
miền bắc lệ thuộc vào triết thuyết CS là chính, miền Nam lệ thuộc vào
vật chất và sự can thiệp trực tiếp của tư bản là chính. Một đằng lệ
thuộc về tinh thần, 1 đằng lề thuộc vào vật chất. Đã 60 năm trôi qua,
chúng ta nhận thấy là sự phụ thuộc về tình thần còn nguy hiểm gấp nhiều
lần sự phụ thuộc vào vật chất. Vì vật chất thì dần dần chúng ta sẽ có
thể tự chủ được, như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan đã làm nhưng về tinh
thần thì sự phụ thuộc như vòng kim cô siết chặt hết thế hệ này đến thế
hệ khác không thể thoát ra được.
Miền Bắc thu phục nhân tâm thông qua CCRĐ hiệu quả hơn Cải cách điền
địa của miền Nam, do miền Bắc cải cách triệt để, đào tận gốc, trốc tận
rễ giai cấp địa chủ. Thêm nữa, phía CS đưa giai cấp vô sản lên nắm chính
quyền. Không có phương pháp dân túy nào tốt hơn điều đó. Trong khi đó,
ông Diệm vẫn duy trì giai cấp địa chủ, người nông dân không được làm
lãnh đạo. Cả 2 miền lúc đó đều có đa số dân là nông dân, nên rõ ràng
miền Bắc đã thu phục được nhân tâm của đa số dân hơn miền Nam. Tuy vậy,
đó cũng là con dao 2 lưỡi. Việc thu phục nhân tâm bằng bạo lực kiểu đó
cũng là 1 trong những nguyên nhân dẫn đến nền kinh tế, chính trị CS được
dẫn dắt bởi những người thiếu kiến thức, năng lực, hồng hơn là chuyên
và là mầm mống dẫn đến sự sụp đổ của CS Đông Âu và sự trì trệ về kinh tế
của các nước CS. Đó cũng là nguyên nhân khiến xã hội miền Bắc những năm
50-56 trở nên hỗn loạn hơn bao giờ hết, trong khi miền Nam lúc đó lại
thanh bình thịnh trị hơn. Rất may cho phía CS là chế độ toàn trị đã
nhanh chóng dập tắt mọi cuộc nổi loạn, kiềm chế được sự hỗn loạn để đưa
xã hội vào sự ổn định nhanh chóng.
Miền bắc tuyệt đối không có đối lập, ngay cả tôn giáo cũng bị đàn áp
từ trứng nước. Hoàn toàn không có báo chí tư nhân, không có biểu tình,
bãi khóa. Trong khi miền Nam, tuy có đàn áp, nhưng vẫn cho phép sự tồn
tại của các tôn giáo ngoài Thiên chúa giáo, vẫn có báo chí tư nhân, vẫn
cho phép biểu tình, bãi khóa. Và đó là 1 trong những nguyên nhân cơ bản
dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm.
Như vậy, có thể nói, tuy ông Nhu, não bộ của chế độ ông Diệm, đã nhận
ra được những mặt mạnh của chế độ CS để học theo nhưng mọi thứ đều dưới
CS 1 bậc. Tuy vậy, sau khi chế độ ông Diệm sụp đổ thì nền đệ nhị CH của
ông Diệm lại không hề kế thừa được viễn kiến của ông Nhu, không tạo
dựng được lãnh tụ tinh thần (kể cả lãnh tụ đã chết), không có được uy
tín trong dân chúng. Đảng Dân chủ của ông Thiệu có tổ chức kém xa đảng
Cần lao, coi như không có triết thuyết (là điều tối kỵ cho 1 đảng phái
chính trị). Chính quyền ông Thiệu để lệ thuộc quá nhiều vào Mỹ, để quân
đồng minh can thiệp trực tiếp, bắn giết đồng bào nên khó thu phục nhân
tâm, làm mất tính chính danh. Đảng dân chủ không có những cánh tay nối
dài, không quản lý được báo chí, ngôn luận do dân chủ hơn chế độ ông
Diệm, dẫn đến xã hội hỗn loạn hơn. Có thể nói, đệ nhị CH thua xa đệ nhất
CH về khả năng chống cộng, thua gần như mọi mặt đã liệt kê ở trên. Vì
vậy, việc VNCH thua VNDCCH là điều khó tránh khỏi. Nếu Mỹ và các nhân
vật quốc gia khác có được tầm nhìn như ông Nhu, quyết tâm duy trì VNCH
là 1 chế độ độc tài, quản lý xã hội bằng bạo lực thì may ra có thể đương
đầu (chứ khó thể chiến thắng) với CS miền Bắc, như Đài Loan, Hàn Quốc
đã từng làm.
Lịch sử đã sang trang, nhắc lại chuyện này chỉ để ôn cố tri tân. Bây
giờ không còn là thời thịnh trị của chế độ độc tài nữa, ngược lại, các
chế độ độc tài và CS trên thế giới đã và đang lần lượt sụp đổ mà không
cần bạo lực. Dân trí cũng đã cao hơn, không còn phù hợp với sự áp đặt
của chế độ độc tài, người dân không cần phải có các lãnh tụ nữa. Bài
viết coi như sự tưởng nhớ đến 1 chế độ chính trị đã suy tàn, 50 năm đã
là khoảng lùi cần thiết để có thể đánh giá tương đối khách quan, nhất là
khi tác giả sinh ra sau chiến tranh.