Đào Tuấn
Theo blog Đào Tuấn
Trong luật Hamurabi, nếu buộc tội người khác mà không đưa ra được
bằng chứng, người ta sẽ phân xử bằng cách “Ra bờ sông và lao mình xuống
dòng sông đó”.
“Nếu kẻ nào đi buộc tội người khác và đã thề trước thần linh về việc
đó mà không đưa ra được bằng chứng xác đáng về sự buộc tội của mình thì
kẻ đó sẽ phải chết”. Đây là điều luật đầu tiên trong bộ luật Hamurabi,
được ban hành vào khoảng năm 1760 trước công nguyên ở Babylon cổ đại.
Nói một cách dễ hiểu: Nghĩa vụ chứng minh tội phạm phải là của người
buộc tội, chứ người bị buộc tội không cần phải chứng minh mình vô tội.
Quy định văn minh này, được gọi là nguyên tắc suy đoán vô tội, về sau
xuất hiện trong tất cả các bộ luật hình sự và là nguyên tắc cơ bản nhất
của hình luật.
Nhưng thưa đức vua Hamurabi, cái nguyên tắc văn minh mà ngài đã đề ra
từ gần 4.000 năm trước, giờ đây, đang bị xem như cỏ rác trong vụ án oan
ở nước Việt thế kỷ 21.
Trong vụ án oan Nguyễn Thanh Chấn, một trong những lập luận mà các cơ
quan tư pháp Bắc Giang đã buộc tội giết người đối với ông là “Hơn 20
phút đồng hồ, từ 19g đến 19g25, Chấn không chứng minh được mình làm gì,
đi đâu và với ai?”. Đây ngẫu nhiên là khoảng thời gian xảy ra án mạng.
Và dù, trong phần tranh tụng, luật sư của ông Chấn đã trình Bảng kê điện
tử, tự động thanh toán tiền điện thoại do Bưu điện cung cấp, thể hiện
trong khoảng thời gian xảy ra án mạng, từ số máy thuê bao nhà Nguyễn
Thanh Chấn có cuộc gọi đi cho máy mang số 566… với thời lượng từ
19h19’51″ đến 19h20’31″. Nhưng bằng chứng ngoại phạm này đã bị Tòa đã
bác thẳng thừng với lí do “cho dù tính khách quan và khoa học của bảng
kê điện tử kể trên là không ai có thể phản bác hoặc phủ nhận về cuộc đàm
thoại đã được ghi nhận, tuy nhiên tài liệu này không thể là bằng chứng
khẳng định vào thời điểm thực hiện cuộc gọi Nguyễn Thanh Chấn là người
bấm máy. Còn lời khai của bà Nhâm, ông Thực về việc Chấn bấm máy cũng
không có tài liệu nào khác hơn để kiểm chứng”.
Và thế là buộc tội giết người. Và thế là tù chung thân. Và thế là khi
người ta không chứng minh được mình đang làm, với ai gì trùng thời điểm
xảy ra án mạng, lập tức người ta có thể bị buộc tội giết người.
Tất nhiên, phải nói đến tình tiết đáng chú ý nhất trong vụ án này là
dù oan ức, dù không hề giết người, nhưng anh Chấn, giờ đây có lẽ phải
gọi là ông Chấn, đã “tự nguyện” đến cơ quan công an, đã ký vào bản nhận
tội, dù trong cả hai phiên tòa sau đó, ông đều kêu oan.
Vì sao người đàn ông vô tội đó lại ký nhận tội giết người để mang nhục, để suýt lãnh án dựa cột?
Vì sao người đàn ông vô tội đó lại ký nhận tội giết người để mang nhục, để suýt lãnh án dựa cột?
ĐBQH, luật sư Trương Trọng Nghĩa, bên hành lang nghị trường đã bóng
gió đặt ra giả thuyết “Đôi khi dùng nhục hình bằng cách dùng tù trị tù
thì rất khó phát hiện”.
Phải có gì đó ghê gớm hơn cả bản án chung thân mới khiến một người
ngay tự nhận về mình tội ác ghê rợn. Và hóa ra, ép cung, nhục hình không
phải là chuyện ở trên cung trăng.
Có người gọi đây là một bản án nhục nhã phải được ghi vào lịch sử
ngành tư pháp Việt Nam. Có người đã nói về sự bồi thường. Nhưng bằng cái
gì và bao nhiêu thì đủ để bồi thường cho nỗi oan khuất của một người
từng đập đầu vào tường để chết, nhưng không thể chết vì quá oan ức.
Trong luật Hamurabi, nếu buộc tội người khác mà không đưa ra được
bằng chứng, người ta sẽ phân xử bằng cách “Ra bờ sông và lao mình xuống
dòng sông đó”.
Phân định sự thật bằng cách lặn nước có thể khiến chúng ta cảm thấy
buồn cười về sự ngô nghê. Nhưng nỗi nhục thà được gột rửa bằng một sự
ngô nghê chứ không thể văn minh bằng cách lạnh lùng thảy ra hai chữ xin
lỗi và bồi hoàn bằng tiền thuế do người khác đóng.
Đào Tuấn