Mark Leonard
Trần Ngọc Cư dịch
Trần Ngọc Cư dịch
Từ nhiều năm nay, mọi động thái đối ngoại của Hà Nội đều được
dư luận đánh giá như những dấu hiệu hoặc là tiếp tục thân – thậm chí phụ
thuộc – Bắc Kinh, hoặc là đang bắt đầu xích lại gần Washington, theo
nghĩa hai khả năng đối lập. Trong bài viết sau đây, nhà nghiên cứu chính
trị quốc tế Mark Leonard chỉ ra rằng Trung Quốc và Mỹ ngày càng trở nên
giống nhau và hệ quả của điều đó trong trật tự thế giới hiện tại và sắp
tới.
______________
Nhiều người lo ngại rằng trong một tương lai không xa, thế giới sẽ bị
chia ra nhiều mảng vì hố sâu ngăn cách giữa Trung Quốc và Mỹ ngày càng
nới rộng. Họ nêu lên câu hỏi, vì sao một chế độ độc tài cộng sản và một
chế độ dân chủ tư bản có thể bắc một chiếc cầu để khắc phục khoảng cách
giữa hai bên? Nhưng đã đến lúc ta nên từ bỏ cái tư duy cho rằng hai nước
này đến từ những hành tinh khác nhau và những căng thẳng giữa chúng là
sản phẩm của những dị biệt giữa hai quốc gia. Trên thực tế, cho đến
tương đối gần đây, Trung Quốc và Mỹ khá hòa hợp với nhau – chính vì
những lợi ích và thuộc tính của hai nước khác nhau. Ngày nay, chính
những tương đồng ngày càng gia tăng, chứ không phải những dị biệt, đang
đẩy hai nước cách xa nhau.
Quan hệ Mỹ-Trung hoàn toàn tương phản với quan hệ giữa Mỹ và Liên Xô,
nước sau cùng đã thách thức quyền lực Mỹ. Trong Chiến tranh Lạnh, khi
địa chính trị trước hết là một cuộc xung đột ý thức hệ, sự tiếp xúc ngày
càng gia tăng và tính đồng qui ngày càng phát triển giữa hai xã hội
phân cách nhau đã nuôi dưỡng được chính sách hoà hoãn.
Nhưng sự phụ thuộc lẫn nhau trên bình diện quốc tế trong thời đương
đại đã đảo ngược tiến trình tương tác đó. Ngày nay, các nước cạnh tranh
nhau vì địa vị quốc tế thì nhiều, mà vì ý thức hệ thì ít. Do đó, những
dị biệt giữa các đại cường thường dẫn đến sự bổ túc cho nhau và hợp tác
với nhau, trong khi sự tương đồng thường là nguyên nhân xung đột. Trong
khi tái quân bình nền kinh tế và rà soát lại chính sách đối ngoại của
mình, Bắc Kinh và Washington ngày một đối đầu về những lợi ích chung. Và
hình như Sigmund Freud đã tiên đoán được trường hợp này: Trung Quốc và
Mỹ càng trở nên giống nhau, thì hai nước lại càng ít thích nhau. Freud
gọi hiện tượng này là “nỗi ám ảnh về những dị biệt tiểu tiết”: đó là xu
thế tập trung vào những dị biệt rất nhỏ giữa những người vốn dĩ giống
nhau để biện minh cho những tình cảm xung khắc của họ. Hẳn nhiên, hai
nước này không hoàn toàn giống nhau. Nhưng hố sâu chia rẽ hai nước một
thế hệ trước đây đã thu hẹp lại, và khi càng giống nhau thì càng dễ trở
nên xung đột.
Vào thời điểm Tổng thống Mỹ Obama lên cầm quyền năm 2009, ông hi vọng
đưa Trung Quốc vào các cơ chế toàn cầu và khuyến khích nước này đồng
hóa lợi ích của mình với việc duy trì hệ thống quốc tế do phương Tây
lãnh đạo sau Thế chiến. Nhưng chỉ gần năm năm sau, theo một quan chức Mỹ
nắm vững tư duy Tổng thống Mỹ mà tôi có dịp trao đổi vào đầu năm nay,
thái độ của Obama đối với Trung Quốc được mô tả chính xác nhất là “thất
vọng”. Theo quan chức này, Obama thấy rằng phía Trung Quốc đã bác bỏ nỗ
lực của ông trong việc tạo dựng một dạng “G-2” không chính thức trong
chuyến viếng thăm Trung Quốc đầu tiên của ông, tháng Mười Một 2009, và
những bất đồng giữa Bắc Kinh và Washington về thay đổi khí hậu, về những
vấn đề trên biển và an ninh mạng đã khiến Obama tin rằng Trung Quốc là
một vấn nạn hơn là một đối tác.
Về phần mình, lãnh đạo Trung Quốc không muốn đề cao một trật tự quốc
tế do phương Tây lãnh đạo, một trật tự mà họ không đóng vai trò tạo
dựng. Đó là lý do tại sao, trong thời gian trước cuộc họp với Obama
tháng Sáu vừa qua tại Khu nhà nghỉ Sunnylands tại California, Chủ tịch
Trung Quốc Tập Cận Bình đã thúc đẩy thiết lập một “loại quan hệ đại
cường mới” – một cách nói được mã hóa để người Trung Quốc nhắn nhủ người
Mỹ phải tôn trọng Trung Quốc như một quốc gia ngang hàng với Mỹ, phải
đáp ứng những đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc, và phải dự kiến
Trung Quốc xác định lợi ích của mình chứ không hậu thuẫn những nghị
trình quốc tế do phương Tây lãnh đạo. Trong khi hai cường quốc lớn nhất
toàn cầu chiều chuộng chứng thần kinh của mình, phần còn lại của thế
giới đâm ra lo lắng. Trong một loạt vấn đề kinh tế và địa chính trị quan
trọng, Bắc Kinh và Washington ngày càng ra sức qua mặt nhau hơn là đầu
tư vào những định chế chung. Điều này sẽ có hiệu ứng sâu xa trên thế
giới. Mặc dù mậu dịch toàn cầu sẽ bành trướng và các định chế toàn cầu
sẽ còn tồn tại, nhưng chính trị quốc tế sẽ không bị khống chế bởi các
quốc gia giàu mạnh hay các tổ chức quốc tế mà bởi những cụm quốc gia
xích lại gần nhau vì có lịch sử và mức độ giàu có giống nhau, và tin
tưởng rằng lợi ích quốc gia của chúng bổ túc cho nhau. Những nhóm quốc
gia thực tiễn và có phần tùy nghi này sẽ tìm cách phát triển thế mạnh
của chúng từ trong nhóm ra ngoài, và sự tương tác giữa chúng với nhau sẽ
làm lu mờ đội hình của cái trật tự tự do đa phương và thống nhất mà Mỹ
và đồng minh đã cố gắng xây dựng từ khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt.
KẾT THÚC THỰC THỂ CHIMERICA
Trong gần hai thập kỷ qua, Trung Quốc và Mỹ đã tận hưởng một quan hệ
cộng sinh gần như tuyệt hảo. Tiền tiết kiệm của Trung Quốc nuôi sức tiêu
thụ của Mỹ. Các công ty Trung Quốc chế tạo những sản phẩm do các công
ty hậu công nghiệp Mỹ thiết kế và bảo dưỡng. Và chính sách đối ngoại
hướng nội của Trung Quốc trên cơ bản không làm lung lay vai trò bá quyền
của Mỹ. Nhà sử học Niall Ferguson và nhà kinh tế Moritz Schularick cho
rằng hai nước đã quyện chặt vào nhau đến nỗi họ bắt đầu gọi chúng như
một thực thể riêng: “Chimerica” [China + America, ND].
Nếu quả thật từng có một Chimerica thì nó tồn tại nhờ cái thực tế là:
mặc dù triết lý cai trị của hai quốc gia khác nhau sâu sắc, nhưng chúng
chỉ khác nhau theo cung cách cái ổ khóa và cái chìa khóa khác nhau.
Trung Quốc được điều hành theo “đồng thuận Đặng Tiểu Bình”, mang tên của
nhà lãnh đạo Trung Quốc đã lùi về phía sau vào những năm 1990, nhưng
viễn kiến của ông vẫn tiếp tục dẫn đường cho nước này nhiều năm nữa. Mục
đích trước tiên của Đặng là duy trì ổn định quốc nội và quốc tế bằng
cách tránh xa một nghị trình đầy tham vọng trong chính sách đối ngoại
và, thay vào đó, chỉ tập trung vào tăng trưởng kinh tế thông qua xuất
khẩu và đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, tín lý cai trị của Mỹ trong
thập niên 1990 dựa vào một chính sách đối ngoại theo chủ nghĩa can thiệp
nhằm bảo vệ một trật tự thế giới do Mỹ lãnh đạo, một trật tự đặt cơ sở
trên tự do mậu dịch ở nước ngoài và tăng trưởng kinh tế trong nước nhờ
sức mạnh tín dụng. Hai viễn kiến này không có gì giống nhau, nhưng chúng
cũng ít khi đối đầu xung đột; thật ra, chúng thường bổ túc cho nhau.
Hẳn nhiên, trong giai đoạn này, Bắc Kinh và Trung Quốc vẫn cạnh tranh
với nhau. Nhưng vì hai nước xuất phát từ những mức quyền lực rất chênh
lệch, cuộc đọ sức trở thành bất đối xứng đến nỗi ít gây ra cọ xát. Vả
lại, hai cường quốc này thường theo đuổi những mục đích hoàn toàn khác
nhau và dựa vào những phương tiện rất khác nhau. Tại châu Á, Mỹ tập
trung vào việc duy trì vai trò siêu cường quân sự của mình và chống lại
bất cứ sáng kiến kinh tế nào mà Mỹ không nắm quyền hoạch định – thậm chí
cả khi chúng được đưa ra bởi một đồng minh như Nhật Bản là nước đã đề
nghị thành lập một quỹ tiền tệ châu Á trong cuộc khủng hoảng tài chính
châu Á 1997-98, một ý tưởng bị Washington bác bỏ. Trái lại, vào thời
điểm đó, Trung Quốc đã tìm cách trấn an các nước láng giềng về “cuộc
trỗi dậy hòa bình” của mình bằng cách hậu thuẫn việc hội nhập đa phương
trong khu vực và hứa hẹn các nước này một phần thưởng kinh tế trong cuộc
trỗi dậy của Trung Quốc thông qua các hợp đồng thương mại. Ở bên ngoài
châu Á, lúc bấy giờ Bắc Kinh và Washington cũng tránh giẫm đạp lên chân
nhau: Mỹ dành ưu tiên cao nhất cho mối quan hệ với các nước dân chủ tiên
tiến khác và các nước giàu năng lượng tại Trung Đông, còn Trung Quốc
thì dồn các nỗ lực ngoại giao của mình vào việc tìm kiếm cơ hội tại châu
Phi và châu Mỹ La tinh, những vùng mà Mỹ đã rút lui.
HOÁN CHUYỂN VỊ TRÍ
Cuộc khủng hoảng tài chính 2008 đã kết thúc kỷ nguyên Chimerica. Thức
tỉnh vì nhận ra sự yếu kém của mình trước các lỗi hệ thống đã đưa đến
cuộc khủng hoảng, Bắc Kinh và Washington cương quyết tái quân bình quan
hệ kinh tế với nhau, một quan hệ mà cả hai nước đều nhận thấy đã trở nên
thiếu lành mạnh. Nhưng trong khi rà soát lại chính sách đối nội và đối
ngoại của mình để tìm cách thích nghi với nền kinh tế toàn cầu đột nhiên
trở nên yếu kém, cả hai nước bắt đầu phản ánh lẫn nhau trong những cung
cách có khả năng thúc đẩy tính cạnh tranh hơn là tính bổ túc.
Trong lãnh vực kinh tế, Trung Quốc đang tìm cách giảm bớt sự lệ thuộc
lâu dài vào hàng xuất khẩu và đang cố gắng kích thích mức tiêu thụ
trong nước và phát triển một nền kinh tế dịch vụ nội địa. Trong khi đó,
Mỹ đang nâng đỡ khu vực chế tạo hàng hóa của mình, một phần bằng chủ
trương hạ giá đồng Mỹ kim thông qua việc gia tăng nguồn tiền cho các
ngân hàng [quantitative easing] và bằng việc trợ cấp khu vực chế tạo xe
hơi, và khuyến khích tăng trưởng kinh tế do xuất khẩu chủ đạo thông qua
một loạt hợp đồng thương mại mới với các nước giàu, gồm Nhật Bản và các
quốc gia trong khối Liên Âu.
Các nỗ lực sản xuất hàng hóa giá trị cao của Trung Quốc và những toan
tính tái công nghiệp hóa của Mỹ sẽ dẫn đến tình trạng là hai nước sẽ
cạnh tranh trực tiếp hơn, khi nước này tiến gần đến phương thức sản xuất
và tiêu thụ truyền thống của nước kia. Chẳng hạn, Trung Quốc không còn
muốn cung cấp các linh kiện rẻ tiền bên trong chiếc iPhone chỉ để đứng
nhìn những lợi nhuận lớn nhất dồn vào tay một công ty Mỹ. Thay vào đó,
Trung Quốc đang khuyến khích các công ty Trung Quốc nên theo gương
Huawei, một công ty đặt trụ sở tại Quảng Đông đã cực kỳ thành công trong
việc bán ra các điện thoại thông minh bắt chước chiếc iPhone, mà lợi
nhuận của công ty này vẫn nằm trong nước. Tuy nhiên, trong quan hệ của
mỗi nước với phần còn lại của thế giới, cả hai cường quốc đang trở nên
giống nhau một cách rất ngoạn mục – trong một số trường hợp gần như đang
hoán chuyển vai trò truyền thống của nhau. Trung Quốc đang phấn đấu để
điều hành ảnh hưởng toàn cầu đang lên của mình. Giới tinh hoa trong
chính sách đối ngoại của đất nước này đang lao vào một cuộc tái tư duy
rộng lớn về chiến lược Trung Quốc; họ chất vấn mọi tín điều trong đường
lối “ẩn mình để chờ thời cơ” của thời đại Đặng Tiểu Bình, gồm cả truyền
thống tránh can thiệp vào nội bộ nước khác của Trung Quốc. Tiến trình
này được thúc đẩy bởi cuộc chiến do NATO lãnh đạo năm 2011 nhằm lật đổ
nhà lãnh đạo Libya Muammar al-Qaddafi, khi Trung Quốc kinh ngạc nhận ra
rằng nhiều nước đang phát triển đã ủng hộ việc can thiệp của quốc tế.
Sức ép đòi hỏi Trung Quốc phải có một chính sách đối ngoại ít thụ động
hơn phát xuất từ các công ty Trung Quốc muốn được che chở tại những thị
trường nguy hiểm ở nước ngoài; từ một đội ngũ trí thức theo chủ nghĩa
toàn cầu chủ trương rằng trong một thế giới mà Trung Quốc hiện diện tại
nhiều điểm nóng, Bắc Kinh phải từ bỏ sự dè dặt của mình để chấp nhận các
hoạt động quốc tế; và từ những người hoạch định chính sách Trung Quốc
hiếu chiến tin tưởng rằng Trung Quốc cần phải quyết đoán hơn trong việc
bảo vệ lợi ích của mình ở nước ngoài. Thậm chí nếu những tranh luận này
có thắng thế đi nữa, Trung Quốc sẽ không vội tung ra những cuộc can
thiệp vì lý do nhân đạo theo kiểu Mỹ nhưng những người làm chính sách
Trung Quốc sẽ bớt rụt rè hơn trong việc can thiệp vào nội bộ của nước
khác. Như Diêm Học Thông (Yan Xuetong), Viện trưởng Viện Bang giao Quốc
tế Hiện đại tại Đại học Thanh Hoa, đã nói với tôi, “Khi Trung Quốc mạnh
bằng Mỹ, chúng tôi sẽ có một đường lối đối với vấn đề chủ quyền giống
hệt như Mỹ.”
Và khi đề cập đến chính trị khu vực, những trí thức diều hâu như Diêm
đang bày tỏ những hoài nghi về việc Trung Quốc có nên đặt lợi ích kinh
tế cao hơn những mục tiêu chính trị hay không. Sự chuyển biến tư duy này
có thể giải thích quyết định của chính phủ Trung Quốc năm 2010 trong
việc tạm thời ngưng xuất khẩu khoáng sản đất hiếm sang Nhật Bản và quyết
định của Trung Quốc hai năm sau đó trong việc giới hạn nhập khẩu trái
cây từ Philippines trong thời gian hai nước xung đột về các đảo trong
Biển Hoa Nam [Biển Đông Việt Nam – N.D.]. Những động thái này diễn ra
song song với việc chính quyền có vẻ dung túng những cuộc biểu tình đôi
khi bạo động được tổ chức bởi các phần tử dân tộc chủ nghĩa Trung Quốc
nhằm chống lại các công ty Nhật Bản đang hoạt động tại Trung Quốc, dù sự
bất ổn đó đã khiến một số công ty này phải dời sang Việt Nam.
Trong một chuyển biến nhiều kịch tính hơn, giới hàn lâm Trung Quốc
cũng đang tranh luận là liệu nước họ có nên xét lại việc chống đối các
liên minh thường trực không. Năm ngoái, Diêm và các trí thức diều hâu
khác công khai đề nghị rằng Trung Quốc nên phát triển các hình thức gần
như liên minh với khoảng trên một chục nước, gồm các cộng hòa Trung Á,
Miến Điện, Bắc Triều Tiên, Pakistan, Nga, và Sri Lanka, cấp cho họ những
đảm bảo an ninh và, đối với những nước nhỏ trên danh sách này, có lẽ cả
sự che chở của chiếc dù hạt nhân Trung Quốc. Những động thái này không
phải là điều mà nguyên Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Robert Zoellick nghĩ tới
vào năm 2005 khi ông kêu gọi Trung Quốc nên trở thành một “thành viên
có trách nhiệm” trong trật tự toàn cầu.
Tiếp sức cho tính quyết đoán quốc tế ngày một gia tăng của Trung Quốc
là sự phát triển một hệ thống chính trị trong nước ngày càng tham gia
bàn việc nước, trong đó nhiều trường phái khác nhau thi đua tranh luận
vấn đề và cũng là nơi Internet và nhất là các phương tiện truyền thông
xã hội đã tạo ra một công luận sinh động hơn trước nhiều. Trong quá khứ,
các nhà làm chính sách phương Tây thường lên án Trung Quốc đã dùng thủ
đoạn để nuôi dưỡng hận thù dân tộc rồi lấy cớ là hành động của mình bị
hạn chế vì sự phẫn nộ của người dân. Nhưng ngày nay, tiếng trống thúc
quân của chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc có vẻ chân thật hơn là ngụy tạo.
Trong Chiến tranh Lạnh, các nhà phân tích phương Tây cho rằng Đảng Cộng
sản là xấu và xã hội dân sự là tốt. Nhưng ngày nay, Đảng Cộng sản có xu
thế thúc đẩy một sự tự chế ở nước ngoài, trong khi người dân Trung Quốc
bình thường lại đòi hỏi Đảng phải có hành động cứng rắn hơn.
Trong khi Trung Quốc cân nhắc phải làm thế nào để nới rộng ảnh hưởng
quốc tế và những cam kết của mình, thì Mỹ đang ra sức hòa giải cái tham
vọng siêu cường quốc tế của mình với tâm trạng thấm mệt chiến tranh của
người dân và những đe dọa về nợ nần quốc gia. Obama đã tìm cách phát
triển một mô hình lãnh đạo ít tốn kém: một phiên bản kiểu Mỹ của đường
lối Đặng Tiểu Bình, với sự khác biệt là trong khi Đặng cố gắng che giấu
sự giàu có đang gia tăng của Trung Quốc, thì Obama lại tìm cách che giấu
sự thiếu hụt nguồn lực ngày càng trầm trọng của Mỹ. Trên thực tế, đường
lối này của Mỹ gồm: trừng phạt các nước thù nghịch như Iran và Bắc
Triều Tiên bằng biện pháp kinh tế, truy kích khủng bố bằng máy bay
không người lái, tránh đơn phương can thiệp ở nước ngoài mà có xu thế
“lãnh đạo từ đằng sau”, và thiết lập những quan hệ thực tiễn với các
quốc gia hùng mạnh như Nga. Từ góc nhìn của Trung Quốc, dấu hiệu có vẻ
báo nguy nhất đối với Trung Quốc là chiến lược “xoay trục” về châu Á của
Mỹ có vẻ như mô phỏng theo chính sách ngoại giao đa phương và chiến
lược thương mại của Bắc Kinh. Thật vậy, như một nhà chiến lược của Lầu
Năm góc đã nói với tôi gần đây, “Thay vì chơi cờ tướng, chúng tôi đang
chơi cờ vây”, một loại cờ bàn cổ đại của Trung Quốc. Nhưng thậm chí khi
Trung Quốc và Mỹ phát triển những đường lối khác nhau để bành trướng ảnh
hưởng, cả hai đều bám lấy một hình thức của chủ nghĩa biệt lệ
[exceptionalism]. Cả hai đều tin rằng mình khỏi phải tuân theo một số
yếu tố nhất định của luật pháp quốc tế và mình được định mệnh giao phó
một vai trò khống chế khu vực tại châu Á. Tuy nhiên, cả hai nước đều khó
có thể hòa hợp cái xác tín ấy với cảm giác mà mỗi bên đều có, rằng
trong một thế giới ngày càng phụ thuộc vào nhau này mình đã bị nước kia
chơi trội. Người Mỹ than phiền về mất công ăn việc làm, còn người Trung
Quốc thì than phiền về việc đã mất đi những số tiền dành dụm bằng mồ hôi
nước mắt. Washington than phiền rằng Bắc Kinh không chơi theo luật, còn
Bắc Kinh thì phản bác rằng những luật này đều do phương Tây bày ra để
kềm hãm các nước khác. Khi căng thẳng gia tăng, nhiều khía cạnh của quan
hệ Mỹ-Trung mà đã có thời cả hai bên cho là cơ hội lại có vẻ đang ngày
càng là những mối đe dọa.
HAI BÊN TÌM ĐƯỜNG TRÁNH NHAU
Trong ba thập kỷ qua, Trung Quốc đã tự do hóa nền kinh tế của mình,
tạo ra một giai cấp trung lưu lên đến hàng trăm triệu người, và chứng
kiến sự ra đời một công luận đích thực [a genuine public sphere] trong
số hơn 500 triệu người dân Trung Quốc sử dụng Internet. Trung Quốc đã
được đón mời vào các định chế quốc tế như Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) và G-20 và được nhiều Tổng thống Mỹ liên tiếp đối xử bằng những
tuyên bố công khai bày tỏ sự kính trọng. Nhiều nhân vật tại Washington
từng hi vọng rằng những chuyển biến này sẽ đi liền với việc Trung Quốc
gia tăng hậu thuẫn đối với hệ thống quốc tế do phương Tây lãnh đạo.
Nhưng họ đã thất vọng vì thấy Trung Quốc không đáp ứng theo mong muốn
của mình.
Thật vậy, thay vì bị những định chế toàn cầu chuyển hóa, Trung Quốc
theo đuổi chính sách ngoại giao đa phương rất tinh vi, làm thay đổi trật
tự toàn cầu. Ở G-20, Trung Quốc đứng cùng phe với các nước chủ nợ, như
Đức, một nước mà Trung Quốc đã liên minh năm 2010 khi người Đức chống
lại một gói kích thích kinh tế toàn cầu do Mỹ đề xuất. Washington cũng
thất vọng vì Bắc Kinh đã góp phần kết liễu Vòng đàm phán Doha về thương
mại thế giới, bằng cách giữ thái độ bất động vào thời điểm các cuộc đàm
phán có dấu hiệu lâm nguy. Tại LHQ, Trung Quốc đã đẩy lùi sự phát triển
các qui phạm bảo vệ tự do: trong thời gian 1997-98, các quốc gia khác bỏ
phiếu theo Washington về những vấn đề nhân quyền tại Đại hội đồng là
80% số lần; trái lại, vào năm đó, các nước “bỏ phiếu theo” Bắc Kinh về
các vấn đề này là 40%. Vào năm 2009-2010, những con số này gần như bị
đảo ngược: khoảng 40% bỏ phiếu theo Mỹ và gần 70% theo Trung Quốc trên
các vấn đề nhân quyền. Sự thay đổi lập trường này một phần là do Trung
Quốc giành được hậu thuẫn của các nước đang phát triển bằng cách cho vay
nhẹ lãi, trực tiếp đầu tư, và hứa hẹn bảo vệ những nước này trong
trường hợp Hội đồng Bảo an LHQ đưa ra những nghị quyết trừng phạt họ.
Trước sự thất vọng của phương Tây, các học giả Trung Quốc, như nhà sử
học vai vế Thì Ân Hoành (Shi Yinhong), tranh luận rằng phương Tây không
nên quá bận tâm về việc “thúc đẩy Trung Quốc hội nhập vào trật tự tự do
của phương Tây”, mà thay vào đó nên điều chỉnh cái trật tự ấy “để đáp
ứng nguyện vọng của Trung Quốc”, như Thì đã nói với tôi gần đây. Sự điều
chỉnh này sẽ đòi hỏi một sự tái phân phối rộng lớn ảnh hưởng chính thức
trong các định chế tài chính và an ninh toàn cầu, theo đó quyền lực
được phân phối cho các quốc gia thành viên sẽ không tùy thuộc vào các
khái niệm được định sẵn từ trước là ai sẽ có quyền cai quản, mà tùy
thuộc vào “sức mạnh đích thực mà mỗi nước có được và sự đóng góp mà mỗi
nước đã thể hiện”, như Thì lý giải. Trên thực tế, Thì tranh luận, Mỹ sẽ
phải chấp nhận một thế cân bằng quân sự với Trung Quốc (chí ít ở phía
đông Đài Loan), việc thống nhất bằng đường lối hòa bình của Trung Quốc
và Đài Loan theo điều kiện của Bắc Kinh, và một khoảng “không gian chiến
lược” nhỏ hẹp nhưng quan trọng đối với Trung Quốc ở tây Thái Bình
Dương. Hơn thế nữa, hệ thống liên minh của Mỹ cần phải “giảm bớt tập
trung vào quân sự và giảm bớt việc lấy Trung Quốc làm mục tiêu”.
Nhưng cho dù giới tinh hoa Trung Quốc có muốn gì đi nữa, phương Tây
vẫn chưa sẵn sàng điều chỉnh trật tự thế giới hiện hữu để đáp ứng nguyện
vọng của Trung Quốc. Và thay vì chấp nhận những nhượng bộ cần thiết cho
một G-2 hay sự bế tắc của nguyên trạng, các cường quốc phương Tây đang
tránh đối đầu trực tiếp với Bắc Kinh trong khi theo đuổi những quan hệ
và những chính sách nhằm hạn chế khả năng của Trung Quốc trong việc uốn
nắn hệ thống quốc tế theo ý mình.
Trong những năm gần đây, chẳng hạn, một nhóm quốc gia có lợi tức cao
do Mỹ lãnh đạo và gồm cả Australia, Canada, Malaysia, và Singapore đã
bắt đầu đàm phán để thông qua Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương,
một thương ước cố ý loại trừ Trung Quốc và nhấn mạnh những tiêu chuẩn
khắt khe đối với các doanh nghiệp nhà nước, với quyền lợi công nhân, với
các biện pháp bảo vệ môi trường, và quyền sở hữu trí tuệ. Nếu cuối cùng
Nhật Bản cũng gia nhập, các thành viên của TPP sẽ chiếm đến 40% GDP
toàn cầu. Thậm chí còn tham vọng hơn cả TPP là những cuộc đàm phán được
khởi động gần đây về Hiệp định Đối tác Đầu tư xuyên Đại Tây Dương, một
kế hoạch đã được bàn bạc từ lâu nhằm tạo ra một hiệp ước tự do mậu dịch
giữa EU và Mỹ, một hiệp ước sẽ cho các nước phương Tây những lợi thế
đáng kể trong bất cứ một cuộc đàm phán thương mại nào sau này với Trung
Quốc. Mục tiêu của những hiệp ước mới này không phải là để đẩy Trung
Quốc ra khỏi nền mậu dịch quốc tế, mà để soạn ra các qui định không có
sự tham gia của Trung Quốc để rồi sau này buộc Trung Quốc phải chấp nhận
chúng. Phương Tây cũng đang có những nỗ lực song song trong lãnh vực an
ninh. Mỹ đang cố gắng sử dụng chiến lược xoay trục hướng về châu Á để
củng cố những quan hệ lâu đời với nhiều nước chung quanh Trung Quốc nhằm
gây cản trở cho tham vọng bá quyền quân sự của Trung Quốc ở khu vực tây
Thái Bình Dương. Trong các nỗ lực can thiệp quốc tế, phương Tây đang
gia tăng “việc tìm kiếm diễn đàn” [forum shopping]: hợp tác với những tổ
chức khu vực, như Liên đoàn Á rập và Liên hiệp châu Phi, và dựa vào
những liên minh không chính thức, như Nhóm Bạn của Syria [Friends of
Syria], bất cứ khi nào chính sách ngoại giao tại LHQ bị bế tắc. Trong
khi đó, Trung Quốc cũng hoạt động ráo riết không kém để qua mặt phương
Tây. Trung Quốc đã thành lập các định chế an ninh của chính mình, như Tổ
chức Hợp tác Thượng Hải, và đã ký kết các thoả ước mậu dịch đơn phương
và đa phương với nhiều nước khắp thế giới. Trung Quốc cũng thường xuyên
tổ chức các hội nghị thượng đỉnh với các đối tác BRICS và đang cố gắng
thành lập một ngân hàng phát triển BRICS với tiềm năng nắm giữ một danh
mục cho vay lớn gấp ba lần danh mục cho vay của Ngân hàng Thế giới.
[BRICS: viết tắt của Brazil, Russia, India, China, South Africa, ND]
CHỦ NGHĨA TƯƠNG ĐỒNG ĐA PHƯƠNG
Đứng giữa các trật tự thế giới do Mỹ và Trung Quốc dẫn đầu là các cơ
chế toàn cầu như Hội đồng Bảo an LHQ, Nhóm G-20, Quĩ Tiền tệ Quốc tế, và
Ngân hàng Thế giới. Nhưng chúng thường gặp phải bế tắc do các bất đồng
giữa những nước thành viên. Do đó, thay vì buộc các cường quốc mới nổi
[emerging powers] phải thích nghi với các định chế phương Tây, hi vọng
lớn nhất có thể có được từ những định chế này là chúng sẽ là nơi để các
đại cường thảo luận những vấn đề đặc biệt bức thiết: chẳng hạn, cuộc tan
chảy tài chính toàn cầu 2008 hay sự ngoan cố của Bắc Triều Tiên về vấn
đề hạt nhân. Sự yếu kém và vô bổ của những định chế này có thể trở nên
ngày một tồi tệ, vì đáng lẽ phải hợp tác để cải tổ những diễn đàn chung
đã có sẵn, các cường quốc phương Tây lại cố gắng xây dựng “một thế giới
phi-Trung Quốc” trong khi Trung Quốc và các nước đối tác cố gắng tạo ra
cái mà một số nhà phân tích gọi là “một thế giới phi-Tây phương.” Chẳng
hạn, Hiệp định Đối tác Thương mại và Đầu tư xuyên Đại Tây Dương có thể
ảnh hưởng [tiêu cực] đối với WTO. Như chuyên gia kinh tế Bỉ André Sapir
đã lý giải, nếu các nước chiếm gần một nửa GDP toàn cầu thành lập hệ
thống giải quyết tranh chấp riêng, tách khỏi WTO, thì cái WTO một thời
kiêu hãnh này “sẽ giống như một tổ chức khác có trụ sở tại Geneva, Tổ
chức Lao động Quốc tế, một nơi có mặt tiền xinh đẹp trên hồ Léman mà
hằng năm các vị bộ trưởng đến đọc những bài diễn văn hay ho nhưng chẳng
bao giờ lấy những quyết định quan trọng.”
Thay vì coi những cơ chế đa phương toàn cầu là tối cần, các nước sẽ
dựa nhiều hơn nữa vào các mạng lưới mới thành lập giữa các quốc gia có
cùng mức độ thịnh vượng. Xin tạm gọi hiện tượng này là “chủ nghĩa tương
đồng đa phương” [similateralism]. Một trong những hậu quả của hiện tượng
này sẽ là một hình thái lưỡng cực mới và lạ thường, bên ngoài có vẻ
giống Chiến tranh Lạnh chứ không còn giống như thế giới của hai thập
niên qua. Những khác biệt này sẽ bao gồm một nước Mỹ mất dần thanh thế,
một đối thủ khôn ngoan hơn (và thành công hơn) ngang hàng với
Washington, và các nước phi liên kết hùng mạnh hơn trước. Nhưng những
động lực của chính trị toàn cầu trên cơ bản cũng sẽ khác với những động
lực chi phối thế giới trong năm thập kỷ sau Thế chiến II.
Một, khác với Chiến tranh Lạnh, bản chất của cuộc đua này chủ yếu sẽ
là địa kinh tế [geoeconomic] hơn là địa chính trị [geopolitical], do hậu
quả của những tốn kém ngày một gia tăng của việc duy trì sức mạnh quân
sự.
Hai, sự cạnh tranh Mỹ-Trung có đặc tính là: hai cường quốc đã lệ
thuộc vào nhau ở mức độ cao, vì sự xâm nhập lẫn nhau giữa hai nền kinh
tế là rất sâu đậm. Tuy nhiên, các nhà làm chính sách của hai nước lại
coi sự lệ thuộc lẫn nhau này là một mối nguy cần phải giảm bớt và quản
lý, chứ không coi đó là một công thức để xây dựng những quan hệ nồng ấm.
Mỹ cần Trung Quốc tiếp tục mua trái phiếu chính phủ của Mỹ, và các bang
của Mỹ đang cạnh tranh ráo riết để thu hút đầu tư Trung Quốc. Nhưng
Washington cũng lo lắng về sự quá lệ thuộc vào vốn Trung Quốc và lo sợ
gián điệp mạng Trung Quốc. Mặt khác, Trung Quốc cần tìm một nơi an toàn
để cất giữ những lượng tiền dự trữ của mình và cần đến công nghệ Mỹ để
xây dựng một xã hội tri thức. Nhưng Bắc Kinh tức giận vì cho rằng chính
sách gia tăng nguồn cung tiền [quantitative easing] của Cục dự trữ Liên
bang Mỹ đang làm tiêu tán đống tiền của Trung Quốc và nghi ngờ rằng
Washington đang hoạt động để thúc đẩy việc thay đổi thể chế tại Trung
Quốc.
Ba, mặc dù nhiều nước phi liên kết cuối cùng phải chọn một chiến
tuyến trong Chiến tranh Lạnh, nhưng trong những thập niên tới, những
nước phi liên kết có thể khai thác sự hiện hữu của những khối quyền lực
linh động hơn, không đòi hỏi nếu theo phe này phải loại bỏ phe kia. Hậu
quả sẽ là một trật tự thế giới lang chạ [a promiscuous world ordwer]
trong đó các nước có thể ký kết các hiệp định với cả Trung Quốc lẫn Mỹ.
Sau cùng, Bắc Kinh và Washington sẽ kình chống nhau vì địa vị toàn
cầu chứ không phải vì ý thức hệ. Cho đến nay Trung Quốc vẫn còn quá yếu
và ở vào thế thủ, chưa đủ sức để đưa ra một phương án thay thế cho cái
trật tự thế giới tự do do Mỹ lãnh đạo, nhưng tình hình này sắp thay đổi.
Trung Quốc và Mỹ sẽ sử dụng cùng một thứ từ ngữ trong việc lý giải
những động lực của mình như: “trật tự,” “tính chính đáng,” “tăng trưởng
kinh tế,” và “trách nhiệm.” Nhưng, như người ta thường nói, hai nước này
sẽ bị chia cách bởi cùng một ngôn ngữ.
MARK LEONARD là Đồng sáng lập viên kiêm Giám đốc Hội đồng Quan hệ Đối
ngoại châu Âu và là Nhà nghiên cứu Chính sách công trong chương trình
Bosch tại Học viện Xuyên Đại Tây dương. Ông là tác giả của hai cuốn sách
gây tiếng vang và được dịch ra gần 20 thứ tiếng là Why Europe Will Run
the 21st Century (2005) và What Does China Think? (2008).