Nhà văn- Luật gia nổi tiếng Bernhard Schlink nhận
định người Đức sau 20 năm tái thống nhất vẫn ẩn chứa nhiều hiểm họa. Ông
lo lắng về những khu vực đang bị bần cùng hóa hàng loạt và thiếu sự
chăm lo của chính sách xã hội.
Sau đây là cuộc trò chuyện của Daniel Schreiber với Bernhard
Schlink đăng trên Tạp chí Cicero số tháng 10 năm 2010 tại CHLB Đức.
(Thế Dũng & Thiên Trường dịch từ Cicero tháng 10 năm 2010)
Thưa ông Schlink, ông là giáo sư đại học đầu tiên của CHLB Đức
nhận lời mời sang Đông Đức giảng dạy tại Đại học Humboldt. Hồi đó ông là
một tiểu thuyết gia trinh thám gặt hái được nhiều thành công, cuốn sách
ông viết chung với Bodo Pieroth về ‘Các quyền cơ bản’ được coi là mẫu
mực của ngành luật. Vì sao ông lại đến Đông Berlin?
Tôi luôn trăn trở về việc nước Đức bị chia tách. Tôi thấy xúc động và
bực bội vì không thể đặt chân tới một phần căn bản của nước Đức. Thế
giới của Bach, Goethe và Humboldt, Brandenburg và nước Phổ từng tạo nên
hình hài chính yếu của nước Đức. Vào những năm bảy mươi, khi còn là sinh
viên trường Đại học Tổng hợp Tự do (ở Tây Berlin- TD), tôi có nhiều bạn
bè ở Đông Berlin, tất cả chúng tôi đều cảm thấy đường biên giới ngăn
cách thực sự là một nỗi bất hạnh cá nhân.
Hồi đó ông đã bao giờ giúp đỡ các bạn bè người Đông Đức bỏ trốn chưa?
Tôi có giúp một người bạn gái ở Đông Berlin trốn sang Tây Đức. Hồi đó
bức tường đã xây xong được nhiều năm, đã qua rồi cái thời kỳ dễ dàng
giúp người khác chạy trốn. Nhưng có những nhóm sinh viên vẫn cố gắng làm
điều đó, và có những người chuyên đi giúp đỡ những người trốn chạy.
Trong vài tháng, Đông và Tây Berlin tổ chức những buổi du lịch cuốn tuần
sang Prag, bạn gái tôi dùng giấy tờ CHDC Đức để xuất cảnh và dùng giấy
tờ Tây Đức để nhập cảnh vào Tiệp Khắc. Tôi có được giấy tờ cần thiết từ
hai gã lưu manh vận măng tô làm bằng lông lạc đà, ngón tay đeo nhẫn to
xù, đi trên một chiếc xe Mercedes đàng điếm có mái xếp lớp. Chúng đã tìm
ra được các công chức Berlin bán cho chúng số giấy tờ cần thiết ấy– và
chúng lại bán đi tiếp – với giá 5.000 mark, một con số khổng lồ đối với
một sinh viên hồi đó. Toàn bộ sự kiện đó giống như cưỡi ngựa phi qua hồ
Bodensee. Nhiều tuần sau đó, khi bạn gái tôi đã sống ở Tây Berlin, thành
viên nhóm sinh viên chúng tôi bị bắt khi tiếp tục tuồn giấy tờ qua biên
giới; và nhiều năm sau khi họ được trả tự do, chúng tôi được biết là
bạn gái tôi đã bị theo dõi lúc chạy trốn. Cơ quan an ninh đã cho bạn gái
tôi xuất cảnh để xem ai là người đứng ở phía sau.
Ông sống với cô bạn gái ấy trong bao lâu?
Mối quan hệ kéo dài một năm. Có lẽ chúng tôi đều không hiểu rõ điều
gì đang đè nặng lên tâm hồn mình. Cô ấy bỏ lại mẹ, các chị em gái và
người bà, những người đã nhiều năm chung sống với cô ấy, còn tôi thì tự
nhiên có nhiều trách nhiệm và nhiều các khoản nợ hơn bao giờ hết. Tôi
nhớ lại là mình hay thức dậy vào buổi đêm và thấy cô ấy đứng trong bong
tối bên cửa sổ. Tôi hỏi: ‘Em sao vậy?’, và cô ấy nói: ‘Không có gì’ –
chúng tôi không chuyện trò được với nhau. Và tôi còn quá non dại và ngu
ngốc nên không hiểu được những điều gì cô ấy đang trải qua.
Từ đó đã gần bốn thập niên trôi qua, nước Đức giờ cũng đã thống
nhất được 20 năm rồi. Ông có nghĩ là xã hội Đức đã gắn kết lại rồi hay
không?
Tôi không phải là người bi quan. Tôi không nói việc tái thống nhất là
một vấn đề lớn, nó chưa bao giờ là vấn đề lớn. Có quá nhiều cơ sở chung
để tái thống nhất. Nhưng hiện tôi là thành viên hội đồng quản trị Quỹ
Meyer-Struckmann, quỹ ủng hộ việc mở trường ở đồng bằng bang Brandenburg
và quan tâm đến các hoạt động cho thanh niên, tôi rất hay đến đó. Chính
sách ở Brandenburg là đóng cửa các ngôi trường không có đủ hai lớp ở
mỗi khối và sát nhập vào trường khác. Thế là có những nơi không còn
trường học nữa, và cũng không còn mối liên hệ văn hóa và thống nhất nào
giữa các ngôi trường nữa. Thất nghiệp hàng loạt, thi thoảng có gia đình
có đến ba thế hệ bị thất nghiệp. Cần phải có những nỗ lực lớn giúp thanh
niên làm quen lại với việc tập trung làm một việc gì đó để sau này tham
gia lao động, những nỗ lực mỏi mòn và đôi khi vô vọng. Những gia đình
đã rút khỏi đời sống lao động và xã hội, rút khỏi những mối liên hệ văn
hóa và chính trị này tuy sẽ không gây ra những cuộc nội chiến. Họ không
phải chịu khổ sở, họ có đầy đủ máy thu hình, game máy tính và bia. Nhưng
họ vẫn là điềm báo của một xã hội đổ nát. Họ thực ra không phải là hậu
quả của cuộc tái thống nhất, nhưng là hiện tượng rõ rệt nhất sinh ra từ
cuộc tái thống nhất. Xã hội của chúng ta có đủ sức và lòng quyết tâm sửa
chữa điều này chăng? Tôi không có ý nói mặt băng dưới chân chúng ta có
thể vỡ ra bất cứ lúc nào. Nhưng tôi cũng không rõ là nó có đủ dày hay
không.
Ông cũng dùng hình ảnh này trong một bài tiểu luận về quá khứ
của nước Đức. Trong đó ông từng đặt câu hỏi: ‘Phải chăng lớp băng đã
thật sự dày lên, hay chỉ là chúng ta đã quên mất là nó mỏng manh thế nào
thôi?’ Hiện tại ông sẽ trả lời câu hỏi này ra sao?
Từ lúc tôi viết tiểu luận đó đến giờ trí thông minh của tôi vẫn vậy.
Dĩ nhiên là tôi nhận thấy ở đây mọi sự đều ổn thỏa. Nhưng có một sự ổn
thỏa mà về thực chất lại trống rỗng – một phép so sánh khác về mặt băng
mỏng. Nhìn lại năm 1933 thật đáng kinh hoàng khi thấy nhà nước và xã hội
nhanh chóng sụp đổ ra sao – những tổ chức không phải mới hình thành
trong nền Cộng hòa Weimar, mà có truyền thống từ thế kỷ XIX. Các trường
đại học, tòa án, cơ quan quản lý, quốc hội, các tổ chức công đoàn và
thậm chí là một số phần của giáo hội đã nhanh chóng đầu hàng. 65 năm qua
chúng ta không trải qua cuộc khủng hoảng lớn nào. Chiến tranh Lạnh
không phải là tình trạng khủng hoảng, mà là cơ hội để nước Đức dễ dàng
phát triển dưới sự che chở của các nước Đồng minh. Khủng bố không phải
là một cuộc khủng hoảng thật sự, mà là vấn đề của cảnh sát. Cuộc tái
thống nhất không phải là khủng hoảng, trái lại thì có. Những cuộc khủng
hoảng kinh tế là thách thức, nhưng chúng bị chế ngự mà chúng ta không
phải hi sinh gì nhiều. Phải chăng không bị thiệt hại hoặc tránh được
những cuộc khủng hoảng lớn như vậy có nghĩa là lớp băng đã dày hơn lên?
Dĩ nhiên lịch sử không lặp lại. Mọi thứ sẽ không sụp đổ như hồi đó.
Nhưng các tổ chức và truyền thống xã hội của chúng ta đã được củng cố
chưa, tâm tính chính trị, luật pháp, đạo đức của chúng ta đã trở nên
đáng tin cậy hơn chưa? Tôi không biết nữa.
Tiểu thuyết ‘Người đọc’ có nhiều độc giả và được đánh giá cao
của ông đã đưa ra một cách thức mới, về mặt nào đó điềm tĩnh hơn, nhắc
lại vấn đề Đệ Tam Đế chế. Phải chăng chỉ đến khi tái thống nhất người
Đức mới thay đổi văn hóa hồi tưởng của mình?
Đây là một luận điểm hay. Cuộc tranh cãi của các nhà sử học vào những
năm 80 về tính đơn nhất và bất khả so sánh của việc Đức quốc xã tàn sát
người Do thái giờ đây lại mang vẻ khổ sở, thực chất là sai lầm. Các sự
kiện lịch sử là đơn nhất và đồng thời phải được so sánh với nhau để ta
thấy chúng là quan trọng. Cuộc tái thống nhất đặt ra những vấn đề mới
giúp chúng ta từ bỏ vấn đề cũ kỹ vô dụng kia. Không phải là lịch sử đã
hoàn tất – thế hệ đi sau mắc nợ thế hệ đi trước, họ gắn với bố mẹ, thầy
cô, các nhà giáo dục, các giáo sư bằng mối thân tình, kính trọng và khâm
phục. Đến thế hệ thứ ba thì khoản nợ này biến mất. Dẫu sao thì quá khứ
đó cũng vẫn là quá khứ của họ.
Thế hệ thứ hai mà ông nhắc đến, bản thân ông cũng thuộc thế hệ
này – với nghĩa rộng nhất, là những người sinh ra khi cuộc chiến kết
thúc, lớn lên ở Tây Đức và khởi sự mối bất hòa văn hóa-chính trị năm
1968 -, cũng hoạt động chính trị và xã hội rất tích cực vào thời điểm
tái thống nhất. Giờ đây nhìn lại ông đánh giá chuyện đó ra sao?
Tôi thấy các ủy viên công tố, quan tòa, giáo sư và phóng viên Tây Đức
có vấn đề khi đặt ra ý nghĩa của cuộc tái thống nhất – những người
chiến thắng của lịch sử, đôi khi thái độ của họ vô cùng kỳ quặc. Tôi nhớ
lại các bạn bè luật sư, quan tòa và ủy viên công tố thực sự có ý nghĩ
rằng: Giờ đây chúng ta sửa lại cho đúng những gì thế hệ cha mẹ chúng ta
đã mắc sai lầm sau Đệ nhị Thế chiến. Sau khi thế hệ đi trước hồi đó đã
không chuẩn mực về pháp lý, giờ đây chúng ta lại lo làm sao sửa chữa
những bất công của CHDC Đức – cứ như là có thể lấy lại được những gì đã
mất vậy. Tôi đã và vẫn đang nghĩ là việc xét xử những người lính canh
giữ bức tường và việc bầu cử gian lận không thích hợp với luật cấm sử
phạt hồi cố dựa trên hiến pháp. Chúng ta đã dùng các mánh khóe pháp lý
để gian lận khi tranh luận liệu sự tuyên án những bất công của CHDC Đức
có đáng để gỡ bỏ luật cấm này, liệu có đáng thay đổi hiến pháp vì nó
không. Đã tìm thấy một sự lầm lạc, liệu CHDC Đức có phải là một nhà nước
phi pháp không và rốt cuộc tôi vẫn thấy nên thảo luận về điều đó. Dĩ
nhiên đó là một nhà nước gây ra nhiều chuyện bất công, công dân của nó
đã không đòi hỏi và thực hiện được các quyền của mình. Nhưng nhà nước
pháp quyền, theo định nghĩa cổ điển, là một nhà nước trong đó các hành
động của nó đều nằm trong khuôn khổ pháp luật, và nói CHDC Đức là một
nhà nước phi pháp là cũng có ý ám chỉ tất cả các hành động của nó đều
phi pháp. Nghĩ như vậy không chỉ là sai lạc, mà còn dễ làm cho các công
dân của CHDC Đức trước đây sẽ cảm thấy bị lăng mạ, miệt thị hoàn toàn
trong cái thế giới mà họ từng sinh sống. Ta nên bỏ qua toàn bộ cái nhãn
hiệu đó mà thảo luận về các vấn đề cụ thể – đó là con đường để tiếp tục
đối xử với quá khứ.
Ông nhắc đến các mánh khóe và qua đó đề cập tới chủ đề ảo tưởng
vốn cũng xuyên suốt tập truyện ngắn mới của ông là ‘Những lời dối trá
mùa hè’. Dĩ nhiên trước hết ta sẽ nghĩ tới những cá nhân. Nhưng nhìn lại
lịch sử của chúng ta cũng có cái sự ‘tự dối mình’ này đấy chứ? Kiểu
phân tích tâm lý logic chúng ta đồng loạt kể cho nhau. Phải chăng đó là
vì ngu dốt, phải chăng là để có thể tiếp tục sống?
Có lẽ không thể không có những huyền thoại về khởi thủy và sáng thế,
những truyền thuyết do các cộng đồng tạo ra, ngay cả khi chúng không
đúng đi nữa. Có lẽ một quốc gia, một dân tộc càng non trẻ thì huyền
thoại càng trở nên quan trọng hơn. Giờ đây người Đức chúng ta đang cố
tạo ra một huyền thoại khởi thủy và sáng thế từ quá khứ kinh hoàng của
Đệ Tam Đế chế và sự chế ngự nó – một huyền thoại vô hại. Nhưng trước đây
huyền thoại của chúng ta là Bài ca Nibelungen, huyền thoại này cũng
thất bại như trận chiến của người Serb trên cánh đồng Amsel. Và điểm
logic là các dân tộc có huyền thoại khởi thủy và sáng thế là những thất
bại rất khó học được những bài học lịch sử.
Ông có nghĩ là xã hội, đất nước của chúng ta đã học đủ các bài học của lịch sử rồi không?
Tôi không rõ. Tôi chứng kiến nhiều người tham gia vào các dự án môi
trường, làm bạn của loài vật hay là người phản đối năng lượng hạt nhân,
giúp đỡ những người bị thiệt thòi hay tàn tật, giúp mở trường học cho nữ
sinh ở Afganistan hoặc giúp các lao động trẻ em ở khu ổ chuột của
Brazil, vận động cho cộng đồng quốc tế ngữ Esperanto. Hầu hết đó là
những hình thức dấn thân cá nhân, đôi khi bướng bỉnh, thường gây ấn
tượng, xúc động, đáng mến. Nhưng hệ thống chính trị của chúng ta có hoạt
động được không, nếu như ngày càng có ít người tham gia vào các đảng
phái hay tổ chức công đoàn hay giáo hội? Nếu như tiến trình chính trị
ngày càng trở nên đáng nghi ngờ hơn? Nếu giới chính trị gia ngày càng bị
khinh ghét? Liệu về lâu dài văn hóa chính trị của chúng ta có chịu đựng
nổi hay không?
Người dịch: Thế Dũng & Thiên Trường
© Đàn Chim Việt