Vũ Thư Hiên
- Anh muốn hỏi chuyện Cù Cưa, hử? – hướng đôi mắt mờ đục và bất
động về phía tôi, ông già ghé sát vào mặt tôi để nghe rõ câu hỏi
– Nhưng cụ thể là chuyện gì cơ?
- Dạ, chả là cháu phải viết một bài báo.
Ông già suy nghĩ.
- Anh là nhà báo hử?
- Vâng.
- Ầy à…, nhà báo… - cụ Cần im lặng một lát; rồi gãi đầu - Cái ấy thì…
thế này: nói thật, tôi không rành. Anh hỏi uỷ ban, họ có trách nhiệm.
Hay là… thế này vậy: anh tìm lão Trưởng Giám. Người ở đây lâu nhất là
lão ấy. Tôi mới có ba chục năm. Kể như mới. Tôi chẳng biết bao nhiêu
đâu.
Một cây bút nữ nổi tiếng trong nhóm Phá Cách giới thiệu ông ngoại của
cô với tôi. Cổ nhân dạy: đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ, có người để hỏi là
tuyệt rồi. Nhưng tôi không may - ông già mà tôi đặt nhiều hi vọng vào
đấy lại tiếp tôi không nhiệt tình.
- Cháu nó quen anh thế nào?
Tôi vội trình bày. Cô cháu cụ thỉnh thoảng có thơ đăng trên tờ báo
của chúng tôi. Quan hệ cộng tác viên với toà soạn, không hơn không kém.
Cụ Cần nghe, không tỏ thái độ. Nhưng cái sự không tỏ thái độ ấy là
thái độ rõ ràng - cụ không hài lòng về sự giới thiệu của cô cháu gái.
Tôi đoán cụ còn không hài lòng về hoạt động của chính cô cháu nữa kia.
Nhóm Phá Cách của cô tên tuổi rùm beng vì sự hăng hái tấn công vào mọi
loại bút pháp của các nhà văn nhà thơ quá cố và chưa quá cố mà họ cho là
cổ hủ. Tôi thưa: nhóm này không dại, có thể nói là khôn nữa - họ biết
tránh né những chỗ cần tránh né.
- Ông em biết mọi chuyện ở Cù Cưa – cô cháu cụ khoe - Ngồi một chỗ mà cụ thấy hết. Cấm cái gì lọt qua mắt cụ.
- Tính tôi không thích rắc rối. – cụ Cần thủng thẳng – Ở đây nhiều
đứa thối mồm lắm. Mà ở đâu chẳng vậy, có phải không ạ? Phàm chuyện gì
đưa lên báo là y như rằng thiên hạ nhao nhao bình phẩm. Phải không sao,
chệch một cái là y như rằng lôi thôi, chờ được vạ thì má đã xưng, chẳng
phải đầu cũng phải tai.
Tôi nhìn cụ, thông cảm. Cụ nói phải. Rặt những điều ông cha đã rút
tỉa trong cách xử sự với đời. Đầu cụ lơ thơ mấy sợi tóc, tai cụ nghễnh
ngãng, cả hai thứ đều mỏng manh, bất cứ va chạm nhỏ nào cũng gây ra hư
hỏng.
- Nhưng cháu nó đã giới thiệu anh thì có việc gì cần đến tôi, anh cứ
lại. Mà này, chớ ở khách sạn làm gì cho tốn tiền. Tối cứ về đây, có mình
tôi thôi. – cụ lầu bầu - Vớ vẩn, ở cái chốn này làm gì có khách sạn,
mỗn cái nhà trọ chết tiệt, cơ mà người ta cứ thích nói thánh nói tướng,
cho nó sướng con ráy.
Ngày thứ nhất
Tìm cụ Trưởng Giám không khó. Đó là một túp lều ở đầu thị trấn, cách
xa những ngôi nhà tân thời, bên một bãi rác. Người đầu tiên đặt nền móng
cho cái thị trấn sầm uất đáp lời hỏi thăm của tôi bằng một tràng ho
khan.
- Đẩy cửa mà vào.
Cánh cửa bằng nứa ken, méo xẹo, xệ xuống đất. Muốn vào trong nhà
khách phải nâng nó lên bằng hai tay rồi đẩy mạnh về phía trước. Nó kêu
kèn kẹt.
Một ông già thấp tè, lưng còng, xương xẩu, còn điếc hơn cả ông già
chỉ đường cho tôi đến hỏi thăm nữa. Trong nhà không có bàn tay đàn bà,
rõ ràng thế, tuềnh toàng, ngập ngụa. Có mùi mốc và mùi chuột chù.
Cụ Trưởng Giám ngồi chồm hổm trên giường, khoác chăn dạ, mặt quắt
queo, sáng quắc một cặp mắt nhìn ra cửa, tức là chỗ có cái ô sáng méo mó
hình chữ nhật:
– Nhà báo hử? Vào đây, vào đây. Đứa nào chỉ cho nhà anh đến tìm ta? Lại lão Cần, phải không?
- Dạ, phải.
- Lão ấy khôn như rận. Lão khôn từ lúc còn trẻ kia, càng già càng
khôn, càng già càng nhát. Lão biết nhiều lắm đấy, còn nhiều hơn ta kia,
nhưng không dám nói. Ta thì ta cóc sợ thằng nào con nào hết. Nhà báo cứ
việc hỏi. Hỏi cái gì cũng được.
Tôi đứng giữa nhà, trình bày mục đích gặp cụ. Cù Cưa nổi tiếng, cần một phóng sự.
- Thế thì ngồi xuống đây đã, chuyện dài đấy. Nghe rồi ghi, này, đã ghi thì ghi cho đúng con mẹ nó vào đấy nhá.
- Dạ.
- Ghi đi, rằng ta, chính cái lão Trưởng Giám này này, nói thế đấy: chúng nó, tuốt tuột, rặt một lũ vô ơn.
Cụ không kể, cụ chửi.
- Chúng nó là ai, thưa cụ?
- Còn đứa nào vào đấy nữa – là cái bọn đang ngồi trên đầu trên cổ cái xóm này chứ ai.
Bằng ngón trỏ cong queo cụ Trưởng Giám chỉ ra ngoài cửa. Rồi vừa khò
khè nguyền rủa vừa chỉ cho tôi chỗ để ấm nước vối, bảo tôi rót lấy mà
uống. Nước nguội tanh trong giỏ.
- Ở đây, cụ là người khai sơn phá thạch, cụ Cần bảo thế…
- Thì còn đứa chó nào vào đấy nữa.
Cụ Trưởng Giám ưỡn bộ ngực lép kẹp trong dáng tự hào.
- Nhưng lão Cần không dám kể gì hết, đúng không nào? Thế đấy, ai hỏi
chuyện Cù Cưa là lão đùn đẩy, lão sợ đụng chạm. Ta thì không. Trước ta
cũng sợ. Giờ ta cóc sợ nữa.
Sổ tay đặt trên đùi, tôi ngồi trên chõng, bên cạnh cụ, hí hoáy ghi.
Cụ trưởng Giám chửi một hồi rồi thôi, cụ mệt. Tôi mường tượng cái xóm
nhỏ đìu hiu nửa thế kỷ trước – cái xóm tí tẹo với dăm nóc tranh, gọi là
xóm còn không đáng, đừng nói làng. Người đàn ông già ngồi bên tôi lúc
ấy là một anh bộ đội, thời ấy người ta gọi là “đi làm cách mạng”. Duyên trời, cụ gặp cụ bà ở vùng này. Vất vả lắm họ mới cưới được nhau.
- Kỷ luật trong quân ngũ ngày ấy nghiêm lắm: luyến ái - cấm, hủ hoá – kỷ luật. Không như bây giờ.
- Tức là trước kia tốt hơn?
- Tốt chó gì mà tốt.
- Hai cụ vẫn cứ lấy nhau?
- Chứ sao.
Cụ không nói vì lẽ gì cụ không ở bộ đội nữa. Có thể đoán là cụ bị
thương, có thể cụ bị sốt rét nặng không đủ sức ở lại đơn vị chiến đấu,
hoặc cụ nại ra một cớ gì để không ra chiến trường nữa. Hoặc tệ hơn, cụ
bị kỷ luật, bị đuổi khỏi quân ngũ vì “hủ hoá” với người sau này
là cụ bà. Trong câu chuyện cụ lờ đi những chi tiết ấy, những chi tiết
cũng rất đáng để biết, cho một truyện ngắn nhiều hơn cho một bài báo. Bù
vào đó cụ dẫn tích bằng giọng hào hứng, với những chi tiết huyền thoại,
chuyện cụ đã dựng nên nóc nhà đầu tiên ở đây như thế nào. Bây giờ cái
chỗ cụ dựng túp lều đầu tiên đã là một thị trấn, được nhà nước thừa
nhận, bằng văn bản hẳn hoi, được đăng trên công báo. Có đèn điện, có
nước máy, có quan có dân, có trộm có đĩ, có xì ke ma tuý, có công an vận
cảnh phục hoành tráng đi lại, có xe cảnh sát giao thông hú còi ầm ĩ, có
sòng bạc nhởn nhơ, có đủ thứ, không là thị trấn còn là cái gì. Có hai
xã gần, một ở trên đường, một trong rừng. Theo lệ thường, nó phải được
gọi là Xóm Trại, xóm của dân ngụ cư, thuộc một trong hai xã kia.
- Tại sao nó lại có tên Cù Cưa, thưa cụ?
- Cái ấy có tích của nó. Nhẩn nha rồi ta kể.
Trên con đường xuyên sơn được Nhật làm trong đại chiến, hai bên toàn
rừng với đồi tranh, bỗng chồi ra một rẻo đất bằng phẳng, sim mua lúp
xúp. Nó lại ở sát giao lộ của con đường tạm, trải đá, với tỉnh lộ trải
nhựa do Pháp xây dựng. Thoạt đầu, trên rẻo đất hoang mọc lên một quán
nước tự giác. Chủ quán chính là cụ Trưởng Giám bây giờ.
- Tức thị, cụ sống bằng buôn bán?
- Xì, buôn bán gì. Tôi làm ruộng. Buôn bán thời ấy có mà chết. To bị cấm, nhỏ bị khinh, không như bây giờ.
Người già thường thế - lúc nào cũng so sánh ngày trước và bây giờ.
Trong cách nói của họ cái ngày trước dù có tồi tàn đến mấy, dù họ có chê
bai nó đến mấy, cũng vẫn là cái gì đó tốt hơn bây giờ.
Cụ Trưởng Giám làm ruộng, đốn gỗ. Cụ không cần coi cái quán. Gọi là
quán chứ nó chỉ là một túp lều lợp lá chuối ở vệ đường. Cứ việc bày mấy
món hàng lên cái chõng tre xộc xệch rồi muốn làm việc gì thì làm. Khách
qua lại rẽ vào quán, tự nhiên ăn, tự nhiên uống, tính lấy tiền trả mà
vào một ống nứa. Trên chõng vẻn vẹn vài nải chuối ngô, đĩa sắn luộc, đĩa
lạc rang, chĩnh nước vối.... Giá các món hàng được viết nguệch ngoạc
bằng mực tím trên giấy dó. Khách là dân lái xe đường dài, bộ đội đi công
tác lẻ, chẳng ai thèm ăn quỵt.
Sau, thấy đất ấy làm ăn được người ta mới kéo đến, nhà nọ nối nhà kia
thành xóm. Chiến tranh hết, sự buôn bán ven biên được khai thông, được
mở rộng, dân cửu vạn đi lại rầm rập, quán trọ nhà hàng mới mọc lên như
nấm sau mưa. Rồi có cả mấy tổ hợp làm măng xuất khẩu, máy rửa măng, máy
đóng hộp xình xịch ngày đêm.
Tôi nhắc cụ quay về với sự tích cái tên lạ tai.
- Ờ, là thế vầy. Thoạt kỳ thuỷ, xóm này chẳng có tên có tuổi gì sất.
Đến khi người đông dần, quán xá nhiều, đã có thể thu thuế, thì cái xã
trên đường ở đàng kia kìa mới toan ghép nó vào địa giới của mình. Cái xã
ở trong rừng không chịu. Hai bên giành nhau, huyện không biết phân xử
thế nào, đùn cho tỉnh. Tỉnh cũng bối rối, nay quyết thế này, mai quyết
thế khác. Có điều lạ là chẳng bên nào buồn hỏi ta muốn nhập vào đâu, ta
có muốn nhập hay không. Ta đây là mấy nhà xóm này ấy. Nhập vào đâu làm
gì? Cái xóm tự nó mọc ra, tự nó lớn lên, trên không chằng dưới không rễ,
một mình một cõi, nó có thuộc về ai bao giờ.
- Xóm gần xã nào hơn, cụ?
- Bằng chằn chặn.
- Thế thì khó xử thật.
- Kiện lên kiện xuống, sư nói sư phải, vãi nói vãi hay, có lúc nó đã có tên đấy: xóm Tân Lập, xã Đông Phong…
- Tức là thuộc về cái xã bên đường cái?
- Không phải. Thuộc cái xã trong rừng.
- Tân Lập, cái tên nhàm, nhưng nghe cũng được. – tôi nói.
- Được cái con khỉ! - cụ Trưởng Giám gắt – Nó cho mình cái tên êm tai
để nó giắt mình vào cạp quần. Hai xã tiếp tục kiện. Ta cũng đâm đơn lên
trên, ta cóc muốn về với bên nào, ta muốn một mình một cõi. Lằng nhằng
mãi. Mới có cái tên là Cù Cưa. Ta lúc bấy giờ là người đứng đầu ở đây.
Ta, tức là cả xóm.
- Đã thành thị trấn rồi sao người ta vẫn gọi là Cù Cưa?
- Thị trấn Tân Sinh chỉ có trên giấy, người qua kẻ lại vưỡn cứ Cù Cưa mà gọi. Ông có thuốc đấy không?
Cụ chìa cho tôi cái điếu bát. Tôi không hút thuốc lào, tôi móc túi
lấy bao Vinataba. Cụ đón bao thuốc, nhón một điếu, châm lửa, bỏ bao
thuốc xuống chõng, bên đùi mình. Tôi mở xà cột, lấy bao khác.
- Bây giờ thị trấn có bao nhiêu dân, thưa cụ?
- Cái ấy ông phải hỏi Con Nặc Nô. Thời ta không có lệ đếm người. Trâu
bò gà vịt thì có, người thì không. Cứ việc lấy nhau, cứ việc đẻ. Đất
này tốt, đàn bà mắn.
- Con Nặc Nô là ai cơ, thưa cụ?
Cụ Trưởng Giám trề môi dưới trong câu trả lời không âm thanh.
Hoá ra Con Nặc Nô không phải một con mẹ ba vạ nào đó, mà là bà chủ
tịch thị trấn. Tôi không biết từ nguyên của Con Nặc Nô là gì, nhưng chắc
chắn nó có nghĩa không đẹp. Người ta dùng nó để chỉ người đàn bà chanh
chua, chỏng lỏn, hùng hổ, lắm điều, đanh đá, và nhiều tính xấu khác nữa.
Không phải mình cụ Trưởng Giám gọi người đứng đầu thị trấn bằng cái tên
như thế, sau tôi mới biết. Cụ Trưởng Giám nói to, còn dân thị trấn nói
nhỏ. Sự đời là vậy, chẳng có gì lạ, không ưa thì dưa có giòi. Nhất là
đối với những bậc chức sắc của bất cứ chính quyền nào. Họ bao giờ cũng
là mục tiêu của sự soi mói, và tất nhiên, của sự đàm tiếu.
Con Nặc Nô không còn trẻ, nhưng cũng chưa đến nỗi già. Sắc đẹp thường
thường bậc trung. Có thể chê đôi lưỡng quyền cao, làn da không được mịn
màng, không được trắng trẻo, tuy cũng không thể gọi là thiết bì. Hàm
răng hơi hô, với những cái răng to, không đều.
- Chào nhà báo. – nàng tươi cười đón tôi trong trụ sở uỷ ban, trong
phòng làm việc của nàng – Em vẫn thường đọc báo anh đấy. Báo của anh uỷ
ban em không đặt mua, nhưng tiếng tăm lắm.
Khi nàng cười trông nàng tươi tắn. Tôi chỉ có thể gọi nàng là “nàng”.
Bởi vì khi giao tiếp nàng không những không có vẻ đáng ghét như cái tên
thiên hạ đặt, mà về khía cạnh nào đó phải nhận rằng nàng dễ thương,
thậm chí còn chút duyên dáng. Trong cử chỉ. Trong cách phục sức. Nàng có
giọng nói ngọt ngào, thánh thót. Mà không chỉ giọng nói, cái cách nàng
nói cũng quyến rũ. Khi nàng cười, tôi bất giác bật cười theo. Nghe nàng
nói véo von tôi quên cả ghi chép, để nàng phải giục:
- Ơ kìa, anh không ghi thì rồi quên mất cái chi tiết ấy đấy. Nó thú vị lắm.
Tôi ghi. Nàng ngọt ngào:
- Gặp anh vui thật. Này, em cũng là đồng nghiệp với anh đấy, anh biết không?
- Thế ư?
Tôi cũng vui với nàng. Con Nặc Nô mở ngăn kéo lấy ra một tập hồ sơ,
đưa cho tôi. Thì ra không phải hồ sơ, mà là một tập thơ. Thì ra nàng
cũng là nhà thơ. Thơ đăng báo tỉnh, nhưng cũng là thơ được in, với những
vần thơ có xuống hàng hẳn hoi, không giống thơ liền tù tì một câu dài
nửa trang của nhóm Phá Cách là thứ thơ tôi kính trọng nhưng không đọc.
- Anh thấy thế nào?
Nàng đặt tay lên tay tôi. Da nàng mát rượi.
Tôi đọc. Thơ của nàng là thứ thơ củ khoai, thơ cổ động, thường lạc
vận, đôi chỗ leo thang, nhưng dễ hiểu. Nó bốc thơm, nó kêu gọi, nó ra
lệnh. Thứ thơ này thường được các bậc chèo lái quốc gia ưa thích, vừa dễ
làm, vừa na ná như thơ, để có thể gọi là thơ.
- Cũng được đấy.
- Được là thế nào? – nàng nguýt tôi - Chỉ có hay trở lên thôi.
Tôi lập tức đồng ý với nàng.
Tôi lập tức đồng ý với nàng.
Chúng tôi thân nhau ngay. Sau cuộc gặp gỡ đáng ngán với một ông già nhát gan và một ông già ba gai, nàng là luồng gió mát.
Con Nặc Nô kéo tôi đi thăm thị trấn. Ở đâu nàng cũng được trọng vọng.
Từ trong cửa hàng người ta chào nàng bằng nụ cười tươi, nói những lời
có cánh. Mấy anh công an nhác thấy nàng là xin gặp riêng một phút để báo
cáo những vụ việc khó xử.
- Thị trấn là một nước nhỏ. – nàng nói – Đủ thứ công việc: tài chính,
thương mại, an ninh, ngoại giao, ngoại thương, nội chính…. Vất vả lắm.
Như con mọn ấy.
Nàng chưa có chồng. Chắc chắn nàng chưa biết trông con mọn là thế nào.
Bữa trưa nàng dẫn tôi đi ăn phở chua, một món ăn lạ miệng tôi chưa hề
nếm qua, một cái gì đó ở giữa bát “thắng cố” của miền núi với phở xào,
nhưng có rưới nước dưa.
Buổi tối, chúng tôi ăn đặc sản, “ở cửa hàng này có đủ mọi thứ thịt
rừng mà thủ đô không có, rồi anh thấy”, nàng nói. Tôi được ăn thịt nhím
nướng ròn, trăn om nghệ, bìm bịp xào nấm.
- Tuyệt thật.
Nàng đưa tay quệt mép. Nàng ăn say sưa.
- Người Tàu cũng thường sang đây ăn. Họ đặt mua thú rừng với số lượng lớn. Nhờ thế mà thợ săn kiếm được, thương lái giàu lên.
- Thế chuyện bảo vệ động vật quý hiếm thì sao?
- Thì cứ bắt, cứ bán cái đã. Ngày mai là chuyện của trời.
Nàng cười ngặt nghẽo.
Nàng cười ngặt nghẽo.
- Kinh tế thị trường mà. Anh uống đi.
Tôi uống. Rượu Mai Quế Lộ. Nặng mà êm.
Khuya, nàng dẫn tôi về nhà nàng, tiếp tục kể chuyện Cù Cưa. Trong nhà
nàng cũng sẵn rượu. Nàng mở chai Mao Đài thết tôi. Thứ Mao Đài trong
bình sứ, bọc nhiễu đỏ. nghe nói phải đặt mua tận Bắc Kinh mới có. Quý
lắm.
Tôi lên giường nàng lúc nào không hay. Chuyện này hiếm giữa hai người
mới quen nhau. Nhưng rượu làm cho tôi mất khả năng ngạc nhiên. Tôi chỉ
thấy một cơn vui dâng lên, tràn ngập. Trên giường nàng không hiền dịu,
mà là một con hổ cái. Mồ hôi đầm đìa, tôi anh dũng vật lộn với con hổ.
Cho đến khi nàng vắt kiệt tôi, biến tôi thành cọng dọc mùng mềm nhũn
trong bát canh bung, tôi mới được thả ra.
Chúng tôi nằm bên nhau, thở rốc.
- Bây giờ thì anh về. – nàng đứng lên, ráo hoảnh – Anh ở khách sạn hử?
Tôi hiểu. Nàng không để tôi ở lại. Không thể. Hoặc không muốn. Nàng
là người đứng đầu thị trấn. Một thứ lãnh tụ. Mà lãnh tụ thì phải đạo
đức. Không tì vết.
- Anh cầm lấy cái đèn pin mà về.
Nàng nói, với một chút ân cần.
Đèn pin trong tay, tôi lảo đảo bước ra đêm đen. Ngôi nhà hai tầng của
nàng là một khối sáng trong bóng tối. Dưới chân nó, sau nhà, là một con
suối. Tôi không nhìn thấy nó, nhưng nghe tiếng nước chảy rì rầm. Một
ngôi nhà to. Trong đó có một con hổ cái.
Thị trấn im lìm trong đêm. Cuối cùng rồi tôi cũng lần mò tìm được
khách sạn. Hình như nó là cái duy nhất. Đúng như lời cụ Cần, một cái nhà
trọ, với những căn phòng trống và những chiếc giường trải chiếu ẩm ướt.
Tôi vừa đặt mình xuống thì những con rệp hung hãn đã ào ào xông tới.
Ngày thứ hai
Tôi đến nhà cụ Cần khi còn tối đất. Tôi tin chắc người già dậy sớm.
Quả nhiên cụ Cần đã ở ngoài vườn, đang dọn cỏ mấy luống rau. Cụ ngạc
nhiên:
- Tối qua sao anh không về? Ngủ đâu?
- Cháu ngủ khách sạn.
Cụ đưa bàn tay khum khum lên vành tai.
- Ai đưa anh đến đấy?
Tôi lúng túng:
- Cháu tự tìm.
Cụ nhìn vào mặt tôi:
- Rệp cắn không ngủ được, phải không?
Tôi tránh cái nhìn soi mói của cụ.
- Vâng.
Cụ Cần mỉm cười.
- Anh đã gặp Con Nặc Nô?
- Dạ, đã.
- Vào nhà uống nước.
Tôi theo cụ vào nhà.
Khác cụ Trưởng Giám, cụ Cần tuy cũng không còn cụ bà, con cái đều ở
xa, nhưng nhà cửa ngăn nắp, vườn tược gọn gàng. Chúng tôi uống trà. Trà
búp. Cái ấm chu sa đối ẩm, hai cái chén, cái nào cũng sạch bong.
- Lão Trưởng Giám chê tôi nhát, phải không?
Tôi uống thật chậm để chọn chữ:
- Cụ là người biết nhìn trước ngó sau, cụ Trưởng nói thế.
Cụ Cần cười:
- Anh cứ nói toạc ra là lão bảo tôi sợ. Chẳng phải mình tôi, cả xóm
này thế cả. Thoạt kỳ thuỷ, dân chưa đông thì khác, người nọ bảo người
kia, mọi người trông nhau mà ăn ở sao cho phải đạo. Sau, mỗi ngày mỗi
đổi, tôn ti trật tự đâu ra đó, không sợ cũng không được. Chẳng hiểu có
phải vì đông dân thêm mà sinh ra thế không? Ý tôi muốn nói: trước kia
chưa có dân, chỉ có xóm giềng với nhau thì dễ, chứ có dân rồi thì ắt
phải có quan, có quan rồi phải có lính, phải trình báo, phải xin xỏ,
phải vi thiềng, tôn ti trật tự là thế…
Tôi không hiểu cụ khen hay cụ chê. Giọng cụ đều đều.
- Nhưng còn bầu bán thì sao?
- Có chứ, có cả. Bầu là cho có cái tiếng thế thôi, ở đâu chả vậy, chứ
người ta sắp đặt trước cả rồi, dân chúng tôi chỉ còn có việc nhất trí
giơ tay.
Có lẽ cụ Cần đã nghĩ lại. Cụ vẫn ý tứ, tránh những chữ mạnh, nhưng tôi hiểu cụ muốn nói gì.
- Cháu dạo qua một ngày, thấy buôn bán tấp nập, phố xá đông vui… Thị
trấn phát triển, tương lai lắm. Cô chủ tịch thân đưa cháu đi tham quan
mấy cơ sở sản xuất, thương nghiệp, dịch vụ…
Cụ Cần nhếch mép. Mấy cái răng cửa hàm trên không còn, cái nhếch mép của cụ không ra cười mỉa, không ra mếu.
- Tin Con Nặc Nô có mà đổ thóc giống ra mà ăn.
- Cháu thấy cô ấy có vẻ tích cực lắm.
- Anh là người qua đường, làm sao biết được. Chính chúng tôi cũng còn
nhầm nữa là. Con Nặc Nô là đứa mồ côi, chính chúng tôi nuôi nó từ tấm
bé. Gọi là con mồ côi cũng là gọi thế thôi, do quen miệng, chứ không
đúng, nó là đứa con hoang, không cha không mẹ. Chính cô con dâu lão
Trưởng Giám nhặt được nó ở đầu ngõ, bọc trong mớ giẻ. Không biết đứa
trốn chúa lộn chồng nào nỡ vứt đứa con rứt ruột đẻ ra như thế? Nó lớn
lên, cả xóm này đùm bọc nó. Mới nghĩ rằng tre già măng mọc, nay nó
trưởng thành, nó là người đứng đầu ở đây thì dân được nhờ, ăn cây nào
rào cây ấy. Hoá không phải. Ăn cây táo nó rào cây soan đâu.
- Tức là cô ấy được bầu làm chủ tịch hẳn hoi?
- Bầu chứ. Chúng tôi tin nó. Như tôi vừa nói ấy. Chúng tôi đâu có
biết trước rồi ra nó thành Con Nặc Nô. Mà ai có thể biết trước được cơ
chứ? - cụ thở dài đánh sượt - Lúc bé nó ngoan lắm. Ai thấy nó cũng yêu.
Cụ ngậm ngùi uống trà.
- Con này mà nói thì khéo vô cùng. Nó nói kiến trong lỗ phải bò ra…
Phàm cái gì từ miệng nó phát ra đều hay cả, cứ gọi là ngọt như mía lùi.
Nhưng khốn nạn, hay thật đấy, cơ mà chỉ hay cho nó, chứ không hay cho
mình… Anh thấy dân chúng tôi có vẻ phởn phơ là anh mới thấy cái bề
ngoài. Tiếng ta hay lắm. Anh có hiểu tại sao có hai chữ “dân gian”
không? Phàm đã có quan thì dân phải gian mới sống được. Không gian chỉ
có chết. Ấy là nói riêng với anh. Chớ viết lên báo.
Cô cháu gái của cụ hẳn được hưởng gien di truyền của ông ngoại. Trong nhóm Phá Cách cô là người cẩn thận nhất trong chữ nghĩa.
- Tôi nói thế đã là hơi nhiều rồi. Nói để anh biết, biết rồi thì để
bụng. Báo nào cũng thế, có cái gì là bất khả xâm phạm đâu. Lạng quạng
chết tươi có ngày.
Cụ rủ rỉ, giọng tin cậy. Tôi rất muốn mà không dám giở sổ tay ra ghi.
Tôi vốn không tin cậy trí nhớ của mình. Sang tuần trà thứ hai, cụ bảo:
- Anh về đây được Con Nặc Nô dẫn đi tham quan, dẫn đi chiêu đãi, tốt
thôi. Nhưng phải coi chừng, chớ có hứa gì hết. Nó chiều anh là có ý của
nó. Có khi anh còn được nó tặng quà cũng nên…
Tôi giật mình.
- Nó cho chẳng lẽ không lấy, hì hì… - không nhận thấy phản ứng của tôi, cụ nhẩn nha tiếp tục - Lấy rồi thì há miệng mắc quai.
- Thì sao?
- Anh mà không viết bài ca tụng nó, tức là ca tụng cái thị trấn Tân
Sinh này này, không phải cái thị trấn trước mặt anh đâu, mà là cái thị
trấn dưới-sự-lãnh-đạo-của-nó, thì anh sẽ thành kẻ thù của nó, có dịp là
nó xơi tái anh tắp lự, hì hì… Anh phải biết: nó quan hệ rộng lắm. Nó với
tới anh chẳng khó gì.
Tôi nhớ đến cái giường nhà nàng, nhớ những giọt mồ hôi của tôi nhỏ
xuống đệm, nhớ hơi thở nóng rẫy, tiếng rên rỉ, cái miệng xinh xinh mở to
với dãy răng cửa không đều nhe ra trắng nhởn trong cơn cực khoái. Sống
lưng tôi ớn lạnh.
- Đã có chuyện xảy ra rồi đấy. Cháu tôi nó có giới thiệu một ông nhà văn về đây, ông biết nhà văn Ngô Toản chứ?
- Cụ ấy nổi tiếng, ai mà không biết.
- Vậy, ông cụ chừng nghe thiên hạ đồn đại về Con Nặc Nô, có ý muốn
gặp mặt nó, chẳng hiểu cụ có ý định viết chuyện nó hay chỉ vì tò mò.
Chính tôi dẫn ông cụ tới gặp nó. Lại cũng chính cháu tôi viết thư giới
thiệu, như nó giới thiệu anh. Cho nên tôi mới ngại. Con Nặc Nô tiếp ông
cụ nồng nhiệt lắm, tặng ông cụ cả một xấp những bài người ta viết về nó,
cả những bài nó viết nữa, chung quy cũng chỉ là những bài nó viết về nó
thôi. Nó cũng dẫn ông cụ đi tham quan các cơ sở, như dẫn anh ấy, cũng
chiêu đãi ông cụ, như chiêu đãi anh ấy, cũng dẫn ông ấy về nhà…
Tôi toát mồ hôi.
- Sau, mãi chẳng thấy ông cụ viết bài ca ngợi nó, thế là nó tương lên
báo, báo tỉnh thôi, không phải báo Trung ương, chắc anh không đọc nên
không biết. Nó chê ông ấy hết lời, bịa chuyện ông cụ xin yết kiến nó mấy
lần, năn nỉ mãi nó mới tiếp, nó kể nó thay mặt dân chúng tiếp đãi, tặng
quà ông ấy những gì, như thế nào, vậy mà ông cụ chẳng viết một dòng về
thị trấn như ông cụ hứa, như dân chúng mong mỏi…
Không, “Con Nặc Nô” sẽ không thể nói đến món quà mà nàng cho tôi đêm
qua, cho dù tôi không viết dòng nào về cái thị trấn rắc rối này.
Từ biệt cụ Cần, tôi đi tìm Con Nặc Nô. Tôi nghĩ đến công việc phải
làm, nhờ nó tôi được vào biên chế nhà nước, tôi không nghĩ đến nàng.
Người ta chỉ tôi đến nhà trẻ của thị trấn. Đó là một ngôi nhà quét vôi
hồng, nằm ở giữa phố chính. Trong đầu tôi ong ong những lời hai ông già
nói về nàng. Tôi không tin những gì họ nói là sự thật. Không phải lần
đầu tôi gặp thói ghen ăn tức ở nơi những người kém may mắn trong đời.
Tôi tin nàng hơn. Nàng dễ thương đấy chứ. Với tôi, nàng hồn nhiên, nàng
thực thà.
Đứng trước nhà trẻ, tôi còn đang ngập ngừng không biết nên gõ cửa hay
tìm nút chuông bấm thì nghe bên trong có tiếng quát tháo. Rồi cánh cửa
mở tung, một cô gái lao ra, đâm sầm vào tôi. Mặt cô đỏ bừng, nhoè nhoẹt
nước mắt.
Tôi ngó vào.
- Vào đây, vào đây anh! – thấy tôi, nàng vồn vã – Giới thiệu với anh,
mấy em nuôi dạy trẻ điển hình tiên tiến ở thị trấn chúng em. Còn anh
đây là đồng chí nhà báo ở trung ương về lấy tài liệu.
Mấy cô nuôi dạy trẻ lí nhí đứng trước mặt nàng ấp úng chào tôi. Mặt
họ nhợt nhạt, sợ hãi, nặng chịch, mắt ướt long lanh. Đủ vẻ. Không hiểu
chuyện gì đang xảy ra. Điều rõ ràng là họ không phải người quát tháo.
Nàng dẫn tôi ra sân. Đàn trẻ ăn cháo sáng. Thấy nàng chúng đồng loạt ngừng ăn: “Chúng cháu chào cô ạ!”.
- Các cháu ăn có no không? – nàng véo von.
- Thưa cô có ạ! – lũ trẻ đồng thanh kêu lên.
- Cháo có ngon không?
- Thưa cô có ạ!
Chúng không chào tôi. Chúng không nhìn đến tôi. Chúng không thấy tôi.
Tôi chẳng là cái gì. Chúng đã được huấn luyện. Chúng chào các cô, các
chức vụ, không chào khách.
Nàng sà vào lũ trẻ, ẵm một đứa lên, thơm đánh chụt. Nàng chìa nó cho tôi.
- Anh xem, con bé có xinh không?
Tôi chưa kịp đón lấy nó thì con bé đã giãy ra khỏi tay nàng, tụt
xuống đất, chạy lại chỗ cô giáo đang cầm thìa. Nó không cần ai khen. Nó
cần cháo.
Nàng nháy mắt với tôi:
- Nhà trẻ này là niềm tự hào của thị trấn đấy. Đã có nhiều báo viết về nó.
- Thế thì tốt, các báo đã viết rồi thì anh chẳng cần phải viết nữa.
- Viết chứ. Thêm một bài nữa càng hay. Nhất là bài của anh.
Nàng vuốt ve lòng tự ái của tôi. Nhưng tôi không cảm động. Tôi biết nàng chưa từng đọc tôi.
- Để em đưa anh một báo cáo về nhà trẻ. Coi như anh đã đến, đã quan sát, đã phỏng vấn. Cứ dựa theo báo cáo mà viết là xong.
- Anh cần báo cáo về mọi mặt. Không phải chỉ nhà trẻ.
- Tham thế! Để em lệnh cho cậu thư ký chuẩn bị cho anh. Bây giờ ta tiếp tục tham quan thực địa những gì nhà báo muốn biết nhá.
Chúng tôi đi dọc phố chính. Nàng than thở:
- Tất bật cả ngày không hết việc, anh thấy đấy. Mấy con nuôi dạy trẻ anh vừa gặp ấy là một lũ mất dạy.
- Em vừa nói họ là điển hình tiên tiến cơ mà.
- Thì phải đôn chúng nó lên mà đoạt cờ luân lưu của tỉnh chứ. – mặt
nàng ửng đỏ – Nhưng tức không chịu được. Bảo một đàng, chúng nó làm một
nẻo. Chỉ được cái giỏi đòi hỏi.
- Họ đòi hỏi gì vậy?
- Chúng nó đòi may quần áo mới cho lũ trẻ con. Anh chưa nhìn thấy lũ
trẻ mặc quần áo đẹp đâu. Mẫu do em vẽ. Tuyệt cú mèo. Nhà trẻ Hoa Hồng
trên Hà Nội chẳng ăn đứt. Nhưng quần áo đẹp ấy là để dành cho ngày lễ
ngày hội thôi, để chưng ra thôi. Giết ai ra tiền mà ngày nào cũng cho lũ
trẻ diện bảnh? Mấy con quái ấy láo lắm, chúng nó bảo ảnh chụp nhà trẻ
đã được đưa lên báo rồi, mọi người đọc báo đã tưởng là thế rồi, thì phải
đồng loạt cho lũ trẻ mặc hàng ngày, kẻo mang tiếng bịp bợm.
- Họ có lý đấy chứ.
- Lý cái nỗi gì, em hỏi anh? Anh tưởng người ta không biết mình bịp
à? Người ta biết quá đi chứ. Ở chỗ người ta, người ta cũng làm y như
vậy. Báo của anh cũng thế. Anh đưa lên báo những mặt tích cực của đời
sống hay đưa mặt tiêu cực? Ở trên muốn thế, ở dưới cũng muốn thế. Không
phải bịp mà là tuyên truyền. Tuyên truyền thì phải có mục đích. Tuyên
truyền cho nhau, tức thị động viên nhau, thì có gì xấu? Khi tỉnh muốn
thị trấn mình khoe thành tích nuôi con khoẻ dạy con ngoan với phái đoàn
tỉnh bạn đến tham quan, nói ví thử như thế, thì mình phải làm sao cho
tỉnh vừa lòng, phải cho lũ trẻ mặc quần áo đẹp, bữa ăn phải ngon…
Lập luận của nàng khó mà cãi lại. Vừa lý giải vừa biện bạch, rất thấu
tình đạt lý. Nếu sự lừa dối được tiến hành trong sự đồng thuận của kẻ
bịp bợm với người bị bịp bợm thì sự lừa dối lẫn nhau còn có nghĩa gì. Nó
trở thành một trò chơi với những luật lệ được cả hai bên tham gia thừa
nhận. Vậy thì cứ chơi đi, chơi cho hăng vào, nó vô hại.
Nàng giật tay áo tôi:
- Anh nghĩ cái gì thế? Anh không đồng ý à? Cũng có lúc bọn em phải để
bọn trẻ ăn mặc khác, lam lũ, nhem nhuốc. Ấy là khi có phái đoàn quốc tế
đến xem để họ giúp mình lập dự án xoá đói giảm nghèo. Lúc ấy mà cho trẻ
con diện bảnh thì có mà ăn cám.
Nàng cười khanh khách:
- Thị trấn là một nước nhỏ mà anh. Nó có chính trị của nó.
Nhìn thấy một đám đông tụ họp ở đàng xa, nàng chau mày:
- Cái gì thế kia không biết? Anh chờ em ở uỷ ban nhé! Em sẽ đưa anh đi ăn.
Tôi sẽ đi ăn một mình. Tôi không thích ăn không của người khác. Tôi
biết nàng không trả tiền hai bữa ăn hôm trước. Tôi có hai con mắt sau
gáy để biết rằng hai ông chủ đều không hài lòng về việc buộc lòng phải
thết đãi một thằng cha căng chú kiết nào đó là khách của uỷ ban, và họ
có trách nhiệm không được tính tiền.
Tôi không về uỷ ban trước. Tôi đứng lại chờ nàng. Từ xa, tôi thấy
nàng đến trước đám đông. Quanh nàng là mấy người hoa chân múa tay sừng
sộ và những người đi theo những người ấy. Có vẻ họ phản đối cái gì đó,
thỉnh cầu cái gì đó. Những người sừng sộ phản đối, những người đi theo
thỉnh cầu. Người thỉnh cầu bao giờ cũng đông hơn người phản đối.
Nàng quay lại chỗ tôi đứng.
- Anh đợi em à?
Đi sát nàng, nhưng sau một bước là hai anh công an. Tôi nghe nàng dặn:
- Làm một báo cáo ngay về vụ này. Không thể để chúng nó phản đối có
tổ chức như vậy được. Nguy lắm. Phải có bàn tay địch khuấy động chúng nó
mới dám thế.
- Đúng vậy – một anh công an đứng tuổi nói - Để yên không được, chúng nó là thế, được đằng chân lân đằng đầu.
- Nhớ lập ngay hồ sơ mấy thằng cầm đầu. Phải dằn mặt chúng nó, bằng cách nào tốt nhất thì làm.
- Rõ, thưa đồng chí. – anh công an trẻ nói.
Trên đường về uỷ ban nàng giải thích:
- Chúng nó chống lại mức thuế do nhà nước quy định, chống luôn phần phụ thu của thị trấn. Anh thấy em có vất vả không?
- Vất thật.
- Không phải lúc nào chúng nó cũng dám chống đâu. Chống hàng ngày thế
có mà chết. Chẳng qua chúng nó thấy dân tỉnh bên kéo đàn kéo lũ kêu ca
thuế nông nghiệp cao quá, đòi kiện vụ đất đai bị giải toả đền bù không
thích đáng, mấy ông ở trên về thanh tra trót dại hứa hươu hứa vượn rằng
sẽ giải quyết, thế là dân bên này chúng nó bắt chước. Cái hoạ này là hoạ
dây chuyền. Phải kiên quyết bóp chết ngay lập tức, từ trong trứng.
Con Nặc Nô có đầy đủ tư chất một chính trị gia, tôi nghĩ. Nàng còn đi xa. Nàng biết cai trị. Nàng biết trấn áp.
Đêm ấy, tôi ở lại nhà nàng. Tôi không đủ sức kháng cự bất cứ mệnh
lệnh nào của nàng. Mặc dầu lòng đã dặn lòng là thôi, không đi ăn với
nàng nữa, ăn như thế là ăn bám, bởi vì có nàng đến ăn là người ta không
lấy tiền, mà không lấy tiền thì họ tiếc, tôi biết chắc như thế, nhưng
tôi vẫn ngoan ngoãn đi theo nàng để khen món chân gấu hầm rượu bách thảo
là tuyệt diệu, dê rừng nướng vỉ là không chê vào đâu được…
Chúng tôi lại nằm với nhau trên cái giường quen thuộc. Đêm ở vùng
thượng du lạnh. Trong chăn ấm tôi ôm tấm thân nóng hổi của nàng vào
lòng. Nàng quặp chặt lấy tôi. Chúng tôi lại vật lộn. Trong cơn mê, tôi
rên lên:
- Em yêu của anh! Em tuyệt vời của anh.
Nàng cũng rên cùng với tôi, nhưng không nói gì lúc ấy. Nàng không
đuổi tôi về như đêm trước. Nhưng tang tảng sáng, nàng đánh thức tôi dậy:
- Bây giờ anh phải đi. Nhớ rẽ vào con đường nhỏ bên tay phải ấy, chỗ không có nhà cửa gì hết.
Nàng pha trà cho tôi uống, chờ tôi tỉnh ngủ.
- Lúc chúng mình gần nhau, anh nói cái gì ấy nhỉ?
- Anh gọi em: em yêu của anh!
Nàng nhìn vào mắt tôi, cái nhìn lạnh lẽo:
- Đừng bao giờ gọi như thế nhá! Em là em, mà anh là anh, chẳng ai là của ai hết. Quên nhanh đi nhá!
- Gọi thế thì có sao? Chúng mình đã là của nhau mà…
- Một lúc thôi. Một giây lát. – nàng đứng lên - Một cuộc trao đổi sòng phẳng của hai đồng minh giai đoạn. Thế là đủ, đồng chí ạ.
Bước ra cửa, tôi toan ôm lấy nàng lần nữa thì nàng gạt phắt tôi ra.
Ngày thứ ba
Tai hoạ nào cũng đến một cách bất ngờ.
Trời đổ mưa to. Hôm sau, tôi đội vải mưa lướt thướt ôm chồng tài liệu
mà cậu thư ký uỷ ban trao cho, chạy về nhà cụ Cần. Tôi kiếm một chỗ
ngồi không bị dột, đọc chăm chú, ghi chép cẩn thận, biết rằng những báo
cáo có chữ ký của nàng là cái nằm trong trò chơi đã được các bên tham
gia đồng thuận. Muốn hay không, tôi cũng là người tham gia trò chơi, tôi
cũng phải tuân thủ luật chơi. Ông chủ nhiệm của tôi là người nghiêm
khắc, ông ấy không tha thứ nếu tôi vi phạm cái luật bất thành văn nọ của
cả hệ thống.
Nhưng cụ Cần lại không chịu nghĩ như thế. Cụ là người đứng đắn. Cụ
không thích tham gia trò chơi. Tôi hiểu ra điều đó khi cụ bỏ đi cả ngày
sau khi đã nấu cơm cho tôi ăn trưa một mình để buổi chiều trở về với cụ
Trưởng Giám. Tôi ngỡ ngàng. Tôi cứ tưởng hai người không ưa nhau. Tôi
nhầm, không ưa thì không ưa, họ cùng đứng chung một chỗ trong cuộc vật
lộn với Con Nặc Nô.
Hai cụ trao cho tôi một tập giấy.
- Đây là đơn của dân chúng tôi tố cáo những sai phạm của chính quyền
thị trấn. Chúng tôi nhờ anh chuyển tận tay cấp trên. Dân chúng tôi oan
ức nhiều lắm, mà không biết kêu vào đâu. Anh thấy làm thế nào là tốt thì
làm giùm. Trước nay chúng tôi gửi đơn đi thì nó bao giờ cũng quay lại
chỗ cũ, chính những người chúng tôi kiện lại nhận được để xử lý chúng
tôi. Chán mớ đời.
Chúng tôi có một bữa tiệc chia tay do cụ Cần thu xếp để chia tay tôi.
Trong tiếng mưa rơi sầm sập, trong ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn dầu,
ba người lẳng lặng ăn bữa tiệc có cá kho mặn với dưa khoai nước. Tôi
buồn. Tôi không biết nói gì với hai cụ. Khác với trò chơi của Con Nặc Nô
và đồng bọn, hai cụ, và tất nhiên, những người dân cùng với hai cụ,
cũng có trò chơi của họ. Tôi đang chơi trò chơi kia, làm sao cùng lúc
chơi trò này?
Tôi miễn cưỡng nhận sự uỷ thác của họ. Tôi chưa biết rồi mình sẽ phải
làm thế nào với tập đơn từ này. Tôi đã giở qua để biết trong đó có gì.
Hệt như mình được xem bản âm một tấm hình mà mình quen nhìn bản dương.
Tôi tự nhủ sẽ cố tìm ai đó là người sẽ xem xét những lá đơn này bằng con
mắt khác. Việc này lành ít dữ nhiều. Nhưng tôi sẽ tìm. Có điều không
tin sẽ gặp được những người can đảm dám rời bỏ trò chơi mà họ đang chơi.
Bữa tiệc kéo dài tới khuya. Cụ Trưởng Giám quyết định ngủ lại nhà cụ Cần. Cụ cũng có một mình, ngủ đâu chẳng được.
Chúng tôi đang mải chuyện thì trong tiếng mưa có tiếng ầm ì từ xa
vọng lại. Như tiếng cối xay thóc. Như tiếng sấm rền. Chưa biết là cái gì
thì nó đã biến thành một tiếng ồn kinh thiên động địa.
Cụ Cần không nghe thấy, nhưng nhìn nét mặt hốt hoảng của cụ Trưởng Giám thì cụ hiểu có cái gì đó bất thường đang xảy ra.
- Cái gì vậy, cái gì vậy? - cụ đứng phắt lên.
- Nguyên xem nào. – cụ Trưởng Giám thần mặt ra, lắng nghe – Thôi chết rồi, vỡ đập, các ông ơi!
- Xóm mình ở đất cao, có vỡ đập cũng không sao đâu, đừng lo. - cụ Cần nói.
Cụ nói ở thượng nguồn có một cái đập ngăn nước cho hồ chứa phục vụ dự
án thuỷ điện, tạm thời dùng để nuôi cá. Con Nặc Nô có phần hùn với các
quan đầu tỉnh trong công trình này. Vụ đắp đập làm cho nhiều làng ở dưới
nguồn bất bình. Người ta nói thế nào rồi cũng có ngày đập bị phá.
- Nhà Con Nặc Nô ở ngay bên bờ suối. - cụ Trưởng Giám bỗng cuống quýt – Nước cuốn băng nhà nó mất.
Cả hai cụ xăng xái đập nứa, châm lửa. Cả hai, mỗi người một bó, đội
mưa đi phăng phăng về hướng con suối. Trong cơn hốt hoảng hai cụ không
nhớ đến tôi. Tôi lẽo đẽo theo họ. Không thể hình dung được hai con người
vừa mới hết lời nguyền rủa Con Nặc Nô, giờ lại hớt hải đi cứu nàng.
Nhà cụ Cần ở trên chỗ đất cao nhất của thị trấn. Chúng tôi ra khỏi
nhà thì đã thấy có rất nhiều đuốc đi về cùng một hướng. Nước mưa rơi và
đuốc xèo xèo.
- Tôi đã bảo con bé: không được làm nhà gần suối như thế, nó không thèm nghe tôi.
Cụ Trưởng Giám cằn nhằn, cụ đi lật đật, chốc chốc lại vấp phải những mô đất.
- Ai mà bảo được nó. Nó cứ tưởng nó là giỏi, nó là nhất. Bây giờ thì biết thân nhá! - cụ Cần nói.
- Lạy trời cho nó tai qua nạn khỏi. - cụ Trưởng Giám thì thầm.
- Cái nhà thì chắc chắn sập rồi. - cụ Cần nói - Nước đổ về mạnh như
thế, đến lô cốt cũng phải bung. Không biết nó có chạy kịp không?
- Chạy mà không kịp thì chắc chết quá.
Khi chúng tôi đến được gần nhà nàng thì quanh đấy đã có cả một rừng đuốc nhấp nhô. Mưa đã ngớt.
Ngoài nhà nàng ở bên suối, không nhà nào làm ở chỗ nguy hiểm ấy cả.
Dân cả thị trấn túm tụm ở mé nước. Con suối nhỏ bé đã trở thành dòng
sông hung hãn. Trên mặt nước nhấp nhô những gốc cây bật rễ.
Người ta ồn ào:
- Nhà sập hẳn rồi. Nhưng chưa bị trôi hẳn. Có ai dám ra đó xem còn người không?
- Ai dám ra bây giờ? Nhìn kìa, nước cuồn cuộn thế kia.
- Có ai mang theo thừng không? Buộc vào mình mà bơi ra đấy xem.
- Thừng có đây, cơ mà ngắn lắm.
Nói thì nói chứ chẳng ai dám ra. Trong ánh đuốc bập bùng tôi nhìn
thấy một mảng tường trăng trắng. Mái nhà đã rơi xuống nước, không còn
dấu tích. Nhưng cái mảng tường kia thì không nhúc nhích, nước không đủ
sức cuốn nó đi, hoặc nó còn bám được vào nền bởi một cái cột có cốt
thép. Có lẽ đó là mảng tường phòng ngủ, nơi tôi đã qua đêm.
- Kia, ở chỗ cái cây đổ có cái gì như hình người kia kìa.
- Đâu? Đâu?
- Kia đấy thây.
- Cái áo chứ người đâu mà người.
- Không phải cái áo, người thật. Không nhìn thấy tóc vật vờ kia à?
Đám đông chú mục nhìn rồi đồng loạt kêu lên.
Đám đông chú mục nhìn rồi đồng loạt kêu lên.
- Đúng! Đúng người thật rồi.
- Chỗ ấy thì ra được đấy. Có ai chịu ra không?
- May chăng người còn sống.
Một người đàn ông lực lưỡng chẳng nói chẳng rằng quăng bó đuốc xuống
đất, buộc sợi thừng quanh bụng, lao ra. Thấy thừng ngắn, những chàng
trai nắm lấy tay nhau làm thành một chuỗi người cho sợi thừng dài thêm.
- Cô chủ tịch! – người đàn ông kêu lên.
Người đàn ông chống chọi với dòng nước để gỡ thân người mắc vào cây.
Lục đục một lát mới gỡ người ấy ra được, ông ta bơi ngược lại với sự
giúp sức của những cánh tay nối dài.
- Liệu còn sống không? – mọi người hỏi vọng ra.
- Không biết nữa. – người đàn ông đáp - Lạnh ngắt rồi.
- Nhanh lên. Có khi còn kịp.
Nàng được đưa lên bờ. Đưa tay gần mũi thấy không còn thở. Người đàn
ông vác nàng lên vai chạy mấy vòng rồi đặt xuống. Không thấy ộc nước ra.
Những bó đuốc quây lại làm thành một vòng lửa sưởi ấm cho nàng. Nhưng
những phút dài vô tận trôi qua. Nàng không tỉnh lại.
- Xong rồi.
- Vô phương.
Nàng nằm đấy, lạnh giá và hững hờ. Giống như lúc nàng bảo tôi:
- Em là em, mà anh là anh, chẳng ai là của ai hết. Quên nhanh đi nhá!
- Hức! Hức!
Bên cạnh tôi cụ Trưởng Giám bật khóc. Tiếng nức nở của cụ lan nhanh
trong đám đông. Những người đàn bà khóc theo cụ. Những người đàn ông mím
môi, không nói gì, mặt lầm lì.
Một người nào đó tiến đến bên nàng, lấy cái khăn tay phủ lên mặt
nàng. Tôi thấy cay cay nơi sống mũi. Thế là vĩnh viễn tôi không còn thấy
mặt nàng nữa, gương mặt lúc nồng nàn lúc lạnh nhạt, như một dấu hỏi cho
câu trả lời không bao giờ có.
Cụ Cần ôm lấy cụ Trưởng Giám dìu đi:
- Thôi cụ, nó đã chết rồi, có khóc có thương cũng vô ích. Chúng ta đã
có lúc yêu mến nó lắm chứ, có phải lúc nào cũng ghét bỏ nó đâu.
Hai ông già bá vào vai nhau mà đi. Tôi cầm bó đuốc đi sau, giơ cao
cho hai cụ thấy đường. Tôi nghe cụ Trưởng Giám nói với cụ Cần trong
tiếng nức nở:
- Tôi khóc là vì tôi đã không kịp làm một việc cho cháu.
- Việc gì cơ? Hả cụ? Việc gì?
Cụ Trưởng Giám lặng đi một lát.
Rồi nói:
- Tôi chưa kịp nói với nó rằng nhà văn Ngô Toản chính là cha đẻ của
nó. Cụ ấy cũng sau chuyến đi về đây mới biết. Cụ ấy cậy tôi nói cho nó
biết. Không kịp rồi.