Cánh Cò
Ông Obama đến Việt Nam mang theo hai món quà, thứ nhất là bỏ cấm vận vũ khí sát thương, thứ hai là Đại học Fulbright Việt Nam.
Món thứ nhất cần phải mua, còn món thứ hai hoàn toàn biếu không từ
ngân sách của Quốc hội Mỹ và các nguồn tài trợ do vận động gây quỹ của
các tổ chức hay tư nhân tại Mỹ. Trường được vận hành phi lợi nhuận,
không có cổ đông và vì vậy không có việc chia lãi cho người góp vốn xây
dựng ngôi trường này. Trường được huy động vốn hoạt động qua một quỹ tín
thác và Chủ tịch Hội đồng Quản trị Fulbright Việt Nam được giao cho ông
Bob Kerrey.
Trên danh nghĩa ông Bob Kerrey là người trực tiếp vận động để quỹ này
có tiền và có lẽ danh tiếng của ông mới là yếu tố quan trọng nhất để
được chọn làm công việc khá nhiêu khê nhưng không lương này.
Nhìn tổng quát thì trường Đại học Fulbright Việt Nam là mô hình đáng
ghi nhận thiện chí của người Mỹ và chính phủ Mỹ. Từ nhiều năm qua, chính
phủ Mỹ đã đào tạo cho Việt Nam rất nhiều TS để trở về làm việc tại Việt
Nam. Chữ Fulbright trên văn bằng của họ là niềm kiêu hãnh không cần che
dấu. Những đóng góp của các chương trình Fulbright rất thiết thực cho
hoàn cảnh kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hòa nhập vừa qua và không ai
có thể nghi ngờ kết quả mà Fulbright mang lại cho Việt Nam.
Đó là những học bổng đơn lẻ và con số sinh viên Việt Nam được học
bổng có thể nói đếm trên đầu ngón tay hằng năm. Trường Đại học Fulbright
mở ra tại Việt Nam sẽ thu hút số sinh viên đáng kể và nó chính là làn
sóng giáo dục mới thúc đẩy ước mơ cho giới trẻ Việt Nam và ngôi trường
này sẽ nhanh chóng làm đối trọng cho những ngôi trường khác, công hay
tư, phải xem xét lại chính mình.
Tuy nhiên sau một lúc phấn khởi, một vài nhân vật trí thức Việt Nam
lại bày tỏ sự không hài lòng khi biết được rằng ông Bob Kerrey, người
được đề cử làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị Fulbright Việt Nam lại có tì
vết trong cuộc chiến Việt Nam. Cụ thể ông đã chỉ huy một toán biệt kích
hải quân tập kích vào Thạnh Phong, một ấp nhỏ thuộc tỉnh Bến Tre và giết
chết 24 người trong đó có 14 phụ nữ, trẻ em và một người già.
Ông Kerrey xác nhận mình là người chỉ huy mặc dù ông không giết người
nào trong số này. Thế nhưng trong bao năm qua ông đã nỗ lực làm mọi
việc để giúp Việt Nam và hơn hết là giúp cho chính ông thoát được ám ảnh
về cuộc hành quân đó.
Trong các trí thức chống lại ông, nổi cộm lên là phát biểu gay gắt
hơn ai hết của bà Tôn Nữ Thị Ninh. Tuy cố chứng minh là bà quen biết khá
nhiều người Mỹ và không hề thành kiến nhưng bà đặt câu hỏi về lòng
hối hận của ông Kerrey và yêu cầu ông nên rút lui khỏi Fulbright.
Trả lời báo chí bà nói: “Việc ông hối hận về vai trò trong vụ thảm
sát Thạnh Phong tôi không thể biết và chỉ có mình ông Kerrey biết. Không
thể coi việc giữ vị trí lãnh đạo của đại học nhiều tham vọng như ĐH
Fulbright là cách sửa sai cho những hành động trong quá khứ”.
Hãy nhìn lại cách mà bà Ninh phán xét. Thứ nhất bà cho rằng không ai
chứng nhận được sự hối hận vì nó nằm trong lòng của ông Kerrey. Như vậy
là bà cực đoan và nguy hiểm. Cực đoan, vì là một trí thức, lại là “trí
thức lớn”, trước khi phán xét bà phải biết thế nào là research, tham
khảo mọi nguồn từ con người cho tới tài liệu xem người mà bà nghi ngờ có
được chứng minh ngược lại hay không. Nguy hiểm, vì sự nghi ngờ xem ra
có cơ sở ấy lại là mảnh đất màu mỡ cho lòng tị hiềm có cơ hội trồi lên
trước khi niềm hy vọng về một nền giáo dục đầy tiềm năng đơm hoa kết
trái.
Bà Ninh từng vận động thành lập ngôi trường mang tên Đại học Trí Việt
nhưng sau nhiều năm xin hết đầu này tới đuôi nọ, nguồn tài chánh từ
nước ngoài vẫn là giấc mơ, cùng lúc hồ sơ thành lập trường vẫn nằm trong
ngăn kéo của các cơ quan trách nhiệm. Bà đã quá rõ vai trò của người
vận động cho số tiền lớn và liên tục mỗi năm không phải là việc dễ dàng.
Trong lập luận chống đối ông Bob Kerrey bà không ngại dùng hạ sách:
“hôn nhân dị chủng”.
Bà nói: “Nếu phía Mỹ khăng khăng giữ quyết định của mình, thì đối với
tôi, không còn có thể coi đây là một dự án chung như nhóm sáng lập vẫn
khẳng định. Vì rằng như trong một cuộc hôn nhân, hai bên cần phải lắng
nghe, tôn trọng cảm xúc và suy nghĩ của nhau”
Cuộc hôn nhân đã thành hình, đã ký giấy hôn thú, đã nhận của hồi môn
từ Mỹ, đã tiệc tùng liên tục tại Hà Nội lẫn Sài Gòn vậy mà bà Tôn Nữ Thị
Ninh lại cho rằng không thể coi đó là dự án chung, và bà thất vọng.
Bà có quyền thất vọng, và có lẽ đó là cái quyền “hợp lý” nhất dành
cho bà. Bởi lẽ khi bà nghi ngờ một con người ở phía bên kia cuộc chiến
có thật tâm hối hận việc họ tàn sát người dân Việt Nam hay không, thì
người Việt cũng có quyền đặt câu hỏi về sự hối hận của những người bà
gọi là đồng chí, họ có hối hận về các vụ thảm sát người dân Việt trong
cuộc chiến hay không.
Bà là người Huế, là danh gia vọng tộc, lại là một cán bộ ngoại giao,
văn hóa cao cấp sao lại không biết vụ thảm sát Mậu thân với bao nhiêu
cái chết oan khuất mà đến nay chưa một ai lên tiếng nhận trách nhiệm về
mình như ông Bob Kerrey nhận tại Thạnh Phong?
Bà có biết trong trận chiến cuối cùng của chiến dịch Hồ Chí Minh vào
sáng ngày 21-4-1975, tại ấp Phú Mỹ, xã Tân Lập, huyện Xuân Lộc (nay là
ấp Phú Mỹ, xã Xuân Lập, thị xã Long Khánh), một cuộc tàn sát tập thể do
các “anh lính cụ Hồ” gây ra làm hơn hai trăm thường dân thiệt mạng oan
khốc. Cựu chiến binh Trần Đức Thạch, cựu phân đội trưởng trinh sát Tiểu
đoàn 8, Trung đoàn 266, Sư đoàn 341 QĐNDVN đã là chứng nhân cho cuộc
thảm sát này và quan trọng nhất: anh ta vẫn còn sống.
Giữa những cuộc thảm sát có mục đích ấy, theo bà ai cần sám hối hơn
ai? Người chỉ huy trận đánh Xuân Lộc hay ông sĩ quan Bob Kerrey?
Chỉ cần hai câu chuyện này thôi bà nên nghiên cứu lại để lần sau có phát ngôn thì nên kiệm lời.
Nước Việt luôn có những bài học tươi rói hàng ngày, bởi khi bà vừa
phát biểu xong thì VTV lại có chương trình “động cơ nào….” Để nói về vụ
cá chết.
Giống như “chị” Tạ Bích Loan, tôi muốn hỏi nhỏ bà: Động cơ nào khiến
bà gay gắt một cách khó hiểu đối với ông Bob Kerrey như vậy? Và động cơ
nào khiến một người ham nói như bà lại im lặng trước hàng ngàn cái chết
từ từ ngay tại quê hương Huế của bà sau khi vụ Vũng Áng xảy ra làm người
dân lo tái mặt?