Thế là bản hiến pháp mới của chế độ cộng sản đã được thông qua, bất
chấp sự phản đối đồng loạt của trí thức Việt Nam và với một đa số đặc
trưng của các chế độ cộng sản: 97%. Đây là một bản hiến pháp mới chứ không phải chỉ là "hiến pháp 1992 sửa đổi" như đảng cộng sản gọi nó để che giấu mức độ nghiêm trọng.
So với bản dự thảo ban đầu bản hiến pháp vừa được biểu quyết đã có một vài thay đổi.
Thay đổi quan trọng nhất là sự rút lại một thay đổi lớn được đưa ra
trong bản sơ thảo: bãi bỏ vai trò chủ đạo của quốc doanh. Điều 51 của
hiến pháp mới giữ lại công thức của hiến pháp cũ: "Nền kinh tế Việt
Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo"; trong khi điều 54 của bản dự thảo không có câu "kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo". Như vậy thay đổi lớn nhất của bản hiến pháp
được vừa biểu quyết so với dự thảo là không thay đổi chế độ kinh tế, là
giữ nguyên trạng. Tại sao đảng cộng sản lại rút lại ý định bãi bỏ vai
trò chủ đạo của quốc doanh và mặc nhiên từ giã cái gọi là kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa? Trong những đóng góp của trí thức
Việt Nam dự định thay đổi này không những không bị phản đối mà còn được
hoan nghênh. Kẻ viết bài này đã là người duy nhất báo động về sự nguy
hiểm của việc hủy bỏ vai trò chủ đạo của quốc doanh trong hoàn cảnh hiện
nay. Tôi hoàn toàn đồng ý rằng vai trò chủ đạo của quốc doanh là một sự
nhảm nhí cần phải bãi bỏ, cũng như một căn bệnh cần phải chữa chạy.
Tập
Hợp Dân Chủ Đa Nguyên mà tôi là một thành viên chủ trương dứt khoát
chọn lựa kinh tế thị trường lấy tư doanh làm nền tảng. Bỏ quốc doanh là
đúng. Tuy nhiên một lập trường đúng về nguyên tắc chưa chắc đã thực sự
đúng trong mọi trường hợp. Còn tùy thuộc ở thời điểm, bối cảnh và người
lấy quyết định. Lấy thí dụ một bệnh nhân, chữa bệnh là đúng nhưng không
phải ai cũng có thể chữa bệnh, phải có y sĩ và thuốc phù hợp. Chúng ta
đã biết kinh nghiệm Nga dưới thời Yeltsin: từ bỏ kinh tế nhà nước và tư
hữu hóa các công ty quốc doanh đã là cơ hội để đám cường hào xâu xé tài
sản quốc gia. Đó là tình trạng chắc chắn sẽ xảy ra trong thực trạng Việt
Nam hiện nay. Từ bỏ kinh tế quốc doanh là việc phải làm nhưng chỉ có
thể thực hiện một cách thận trọng dưới một chế độ dân chủ lương thiện.
Lý do khiến đảng cộng sản đã tự ý rút lại dự định bỏ vai trò chủ đạo của
quốc doanh rất có thể chỉ giản dị là vì các nhóm lợi ích trong đảng
chưa đồng ý trên sự chia chác các tổng công ty và tập đoàn quốc doanh.
Thay đổi quan trọng thứ hai so với bản dự thảo là sự tăng cường hơn
nữa quyền hạn của chủ tịch nước. So với hiến pháp cũ thì quyền hạn của
chủ tịch nước đã được gia tăng rất nhiều trong dự thảo sửa đổi. Điều 93
của dự thảo qui định chủ tịch nước có mọi quyền hành đối nội cũng như
đối ngoại, đặc biệt chủ tịch nước "thống lĩnh các lực lượng vũ trang
nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh; quyết định
phong hàm, cấp sĩ quan cấp tướng trong các lực lượng vũ trang nhân dân,
đô đốc, phó đô đốc, chuẩn đô đốc hải quân; bổ nhiệm Tổng tham mưu
trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam".
Điều 88 trong hiến pháp vừa được biểu quyết còn tăng cường hơn nữa những quyền này. Cụ thể là chủ tịch nước không chỉ "phong hàm" các sĩ quan cấp tướng và "bổ nhiệm" các chức vụ đứng đầu quân đội mà còn "bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức".Như
vậy là theo bản hiến pháp mới chủ tịch nước có tất cả mọi quyền hành,
đồng thời cũng là vị tổng tư lệnh toàn quyền của quân đội. Trái lại thủ
tướng hầu như không còn thực quyền nào, kể cả quyền lãnh đạo chính phủ
vì: "Cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quy định. Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số".
Thủ tướng cũng chỉ có một phiếu trong những quyết định của chính phủ
như mọi bộ trưởng. Việc gia tăng hơn nữa quyền hạn của chủ tịch nước
cũng do ban lãnh đạo cộng sản tự ý chứ không đáp ứng một đề nghị nào từ
ngoài cả. Kẻ duy nhất bày tỏ quan tâm đến việc tập trung quyền lực vào
tay một chủ tịch nước cũng chính là tác giả bài này. Đây là một bước
chuyển hóa quan trọng từ độc tài đảng trị sang độc tài cá nhân trong
những điều kiện hiểm nghèo cho chế độ.
Một số đông đảo trí thức đã ký tên vào kiến nghị yêu cầu hoãn việc
thông qua dự thảo sửa đổi hiến pháp vì dự thảo này không chấp nhận được.
Nó không những không phải là một bước tiến về dân chủ như mọi người chờ
đợi và như bối cảnh quốc quốc gia và quốc tế đòi hỏi mà còn là một bước
lùi. Nó vẫn ngoan cố khẳng định độc quyền của đảng cộng sản. Xấc xược
hơn nữa nó còn buộc các lực lượng vũ trang phải trung thành trước hết
với Đảng. Trên điểm này hiến pháp mới đã có một nhượng bộ nhỏ so với dự
thảo: điều 65 qui định: Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước" thay vì: "Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân"
như trong dự thảo. Trong dự thảo ĐCSVN được đặt trước cả tổ quốc và
nhân dân, quân đội chỉ trung thành với đảng chứ không chứ không cần biết
tới nhà nước. Các lực lượng vũ trang như vậy được coi là hoàn toàn của
Đảng. Trong hiến pháp vừa được thông qua Nhà Nước đã được thêm vào như
một đối tượng trung thành của lực lượng vũ trang, dù đứng sau Đảng. Đây
chỉ là một nhượng bộ trong cách hành văn nhằm xoa dịu dư luận chứ không
phải là một nhượng bộ thực. Tổ quốc và nhân dân là những khái niệm trừu
tượng, chỉ có nhà nước, đại diện của tổ quốc và nhân dân, là có sự hiện
hữu cụ thể. Đặt Đảng trước nhà nước cũng là đặt Đảng trên tổ quốc và
nhân dân. Các trí thức đã ký tên vào các kiến nghị phải thấy rằng họ đã
bị nhục mạ.
Có thể nói gì về bản hiến pháp mới này?
Điểm bị phản đối nhất trong dự thảo vẫn được duy trì. Các lực lượng
vũ trang vẫn phải tuyệt đối trung thành với Đảng CSVN, trước cả nhà
nước, nghĩa là về nội dung trước cả tổ quốc và nhân dân như ta vừa nói.
Điều này đã được bàn nhiều nhưng mức độ nghiêm trọng của nó vẫn buộc
chúng ta phải nhận định lại để nhìn thật rõ. Thế nào là một nhà nước?
Theo định nghĩa phổ cập nhà nước trong một quốc gia độc lập là thực thể
có độc quyền sử dụng bạo lực hợp pháp. Với bản hiến pháp này nhà nước
Việt Nam hiện nay không còn độc quyền này nữa, nó không còn là một nhà
nước có chủ quyền. Đảng CSVN đã tự định nghĩa như một lực lượng chiếm
đóng. Nó đã tuyên chiến với dân tộc Việt Nam. Vậy người Việt Nam cũng
phải nhìn nó như một lực lượng chiếm đóng nước ngoài.
Nhưng tại sao Đảng CSVN lại liều lĩnh thách thức nhân dân Việt Nam
như vậy? Giả thuyết hợp lý nhất là họ thấy bị đe dọa trước làn sóng bất
mãn đang dâng lên và muốn chuẩn bị cơ sở pháp lý để quân đội hoặc tham
gia đàn áp những cuộc biểu tình đòi dân chủ hoặc ít nhất không can thiệp
khi công an đàn áp. Giả thuyết này càng nhiều triển vọng đúng vì gần
đây lực lượng công an chống biểu tình đã được tăng cường đáng kể. Nếu đó
là tính toán của ban lãnh đạo cộng sản thì họ lầm to. Luật chỉ cao hơn
hết bởi vì nó đúng; chính vì đúng mà nó mới có tác dụng buộc kẻ mạnh,
nếu không có lý, phải nhượng bộ kẻ yếu. Luật vô đạo không phải là luật
như Socrates đã nói gần hai mươi lăm thế kỷ trước. Quan điểm Mác –Lênin,
theo đó luật là dụng cụ đàn áp của kẻ thống trị, là sai hoàn toàn, sai
một cách bi đát. Chính vì thế mà chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ sản sinh
ra những chế độ quái thai rồi bị thế giới văn minh vất bỏ. Bản hiến pháp
thô bỉ này không có giá trị, ngược lại nó còn đặt nhà nước cộng sản
trong thế bất hợp pháp. Quân đội không còn bổn phận phải phục tùng một
nhà nước như vậy nữa. Nếu một tướng lãnh đảo chính lật đổ chính quyền
này ông ta không thể bị coi là phản loạn bởi vì nhà nước này không còn
là một nhà nước nữa. Đảng cộng sản muốn dùng luật pháp để khống chế quân
đội nhưng, một cách mù quáng, họ đã chỉ phá tan cái khuôn khổ pháp lý
ràng buộc quân đội với họ.
Qua bản hiến pháp này có lẽ ban lãnh đạo cộng sản đã muốn tập trung
quyền lực vào một chủ tịch nước, có mọi triển vọng sẽ kiêm luôn chức
tổng bí thư đảng theo mô hình Trung Quốc, để chấm dứt một tình trạng
phân tán quyền lực - giữa tổng bí thư, chủ tịch nước và thủ tướng - đang
làm tê liệt chế độ. Nhưng nếu quả như vậy thì họ cũng lầm to. Sự phân
tán quyền lực hiện nay không phải ngẫu nhiên mà có, nó là hậu quả của
tình trạng mất lý tưởng và đạo đức trong đảng. Bộ máy sàng lọc của đảng
vì thế đã loại bỏ hết những người có nhân cách và chỉ để lại những cấp
lãnh đạo mờ nhạt, cơ hội và thủ đoạn, thấp bé về cả cả đạo đức lẫn trí
tuệ, không ai đủ bản lãnh và uy tín để đoàn kết toàn đảng. Phân tán
quyền lực là hậu quả tất nhiên. Tình trạng phân tán quyền lực này tuy
gây bế tắc nhưng cũng đã giúp chế độ tồn tại, vì nó cho phép các phe
phái trong đảng thỏa hiệp để chia chác quyền lực và quyền lợi. Cả Nông
Đức Mạnh lẫn Nguyễn Phú Trọng đều đã được chọn làm tổng bí thư đảng như
là giải pháp thỏa hiệp, không phải vì họ tài giỏi mà chính vì họ không
có bản lãnh và do đó không đe dọa ai. Sự thỏa hiệp này sẽ không thể có
được nữa khi tất cả quyền lực tập trung vào một người. Các phe phái bị
đặt vào thế hoặc được tất cả hoặc mất hết, kể cả an ninh cá nhân. Không
ai có thể nhường ai. Cuộc đấu đá sẽ rất dữ dội và có thể làm vỡ tan cả
đảng lẫn chế độ.
Khó thể tưởng tượng rằng những người lãnh đạo cộng sản có thể mù
quáng đến nỗi không nhìn thấy nguy cơ này. Vậy tại sao họ vẫn sửa đổi
hiến pháp như vậy? Phải chăng là vì trong một lúc nào đó tất cả các phe
phái đều đã chủ quan cho rằng mình sẽ giành được phần thắng rồi cùng lâm
vào thế lỡ phóng lao? Khó tin. Giả thuyết có xác xuất lớn hơn nhiều là
họ đã sửa đổi hiến pháp do áp lực của Trung Quốc để thiết lập mô hình
Trung Quốc tại Việt Nam và người chủ tịch nước kiêm tổng bí thư sẽ là
người do Trung Quốc chỉ định và hỗ trợ. Như thế vấn đề người chủ tịch
nước được giải quyết nhưng chủ quyền Việt Nam không còn. Chúng ta không
thể chấp nhận viễn ảnh này.
Sự kiện một bản hiến pháp vừa thách đố nhân dân vừa tạo nguy cơ ngoại
thuộc được một "quốc hội" gần 500 người có ăn học và có phương tiện
thông tin thông qua mà không có một phiếu chống nào sẽ phải khiến nhiều
thế hệ mai sau tự hỏi trí thức Việt Nam năm 2013 là hạng người gì. Đã
chỉ có bảy người không bỏ phiếu, họ tỏ ra còn có chút liêm sỉ dù vẫn
chưa đủ can đảm để làm người, nghĩa là lên tiếng chống lại. Nhưng cái đa
số lỗ mãng 97% này không những không chứng tỏ sự bền chắc của chế độ mà
trái lại còn phơi bày sự chao đảo của nó. Trong vài năm gần đây, chính
do sự phân hóa trong nội bộ đảng mà các "đại biểu quốc hội" đã phần nào
được thả lỏng và ta đã thấy họ đã có những ý kiến rất khác nhau trên
nhiều vấn đề, như Đường sắt Cao tốc, Bôxit Tây Nguyên v.v. Đó là hậu quả
tự nhiên của tình trạng thiếu hụt tư tưởng và lý luận của Đảng. Như vậy
trên một vấn đề nghiêm trọng như hiến pháp sự chia rẽ càng phải lớn
hơn, nhất là bản hiến pháp này lại sai và nguy hiểm một cách quá lộ
liễu. Số "đại biểu" không thuận phải rất cao. Đa số 97% chỉ có thể là
kết quả của một sự ép buộc thô bạo. Đừng quên một sự kiện rất không bình
thường. Kỳ họp quốc hội này được thông báo là có mục đích chính là thảo
luận về sửa đổi hiến pháp nhưng chỉ vài ngày sau vấn đề sửa đổi hiến
pháp không còn được thảo luận nữa, thay vào đó là những đề tài như nợ
xấu, lạm phát, luật xây dựng, luật bảo vệ mội trường, bảo hiểm y tế, hôn
nhân và gia đình, phòng chống tham nhũng, qui chế sĩ quan v.v. Hiến
pháp mới được đem biểu quyết không tranh cãi và ngay sau đó kỳ họp quốc
hội kết thúc, sớm một ngày so với dự trù. Tình trạng kỳ cục này chỉ có
thể giải thích là ban lãnh đạo đảng thấy rằng nếu cho thảo luận sẽ rối
loạn và nếu cho biểu quyết như thường lệ thì bản hiến pháp mới sẽ không
được thông qua; họ đã bắt buộc các "đại biểu" phải im mồm và bỏ phiếu
thuận nếu không muốn bị trừng phạt nặng, và các "đại biểu" đã run sợ.
Cũng nên nhớ là một "đại biểu quốc hội" có thể bị đuổi khỏi quốc hội bất
cứ lúc nào, và sau đó mất hết mọi bảo đảm của qui chế đại biểu, khi bị
đánh giá một cách mơ hồ là "không còn xứng đáng" theo điều 7 của hiến pháp, trước cũng như sau khi sửa đổi.
Cần nhấn mạnh một lần nữa là bản hiến pháp vừa được thông qua không
phải là "hiến pháp 1992 sửa đổi" mà là một hiến pháp mới. Nó thay đổi cả
bản chất của chế độ lẫn chế độ chính trị. Nó khẳng định Đảng Cộng Sản
Việt Nam là một lực lượng chiếm đóng. Nó là một cóp nhặt của mô hình
Trung Quốc và đặt đất nước ta trước nguy cơ mất chủ quyền thực sự. Nó
tuyên chiến với dân tộc Việt Nam và nhục mạ trí thức Việt Nam.
Chúng ta phải ứng xử thế nào?
Trước hết phải tự hỏi tại sao nhóm người cầm đầu đảng cộng sản lại có
thể xấc xược đến như thế? Phải chăng họ xấc xược chỉ vì chúng ta quá
nhu nhược? Đặt câu hỏi cũng là đã trả lời. Nhưng ai nhu nhược? Dân tộc
nào cũng thế thôi, chỉ khác nhau ở tầng lớp trí thức. Trí thức Việt Nam
đã không làm nhiệm vụ lãnh đạo xã hội của mình mà chỉ luẩn quẩn trong
những yêu cầu và kiến nghị. Họ quên rằng tự do và phẩm giá là những điều
không thể van xin để được ban phát.
Đảng Cộng Sản Việt Nam qua bản hiến pháp này đã tự khẳng định như một
lực lượng chiếm đóng. Thái độ duy nhất đúng trước một lực lượng chiếm
đóng là chống lại một cách quả quyết và dứt khoát. Mọi nhân nhượng và
hợp tác đều không chính đáng.
Đừng vội hỏi chúng ta có thể làm gì trong hoàn cảnh hiện nay để rồi
chỉ nhìn thấy khó khăn và trở ngại. Hãy có quyết tâm đã rồi chúng ta sẽ
thảo luận. Một điều chắc chắn là tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam chống
lại đảng cộng sản sau khi nó đã hiện nguyên hình của một lực lượng
chiếm đóng và đại đa số đảng viên cộng sản cũng không muốn tham gia một
lực lượng chiếm đóng. Điều cũng chắc chắn không kém là chúng ta có thể
giành thắng lợi mà không cần dùng tới bạo lực. Các tập hợp của Gandhi
tại Ấn Độ và Mandela tại Nam Phi đã đánh bại được những lực lượng chiếm
đóng nước ngoài hung bạo hơn nhiều bằng những phương thức thuần túy bất
bạo động.