MINH DIỆN
Anh
Nghĩa vê điếu thuốc lào to bằng hạt ngô cho vào nõ điếu, châm lửa, hóp
má hít một hơi dài. Anh xòe tay vỗ đánh bộp vào miệng điếu cho bã thuốc
bắn ra, rồi hit tiếp. Chiếc điếu cày rít lên những tiếng sòng sọc, lại
có pha tiếng như thổi sáo. Người ta nói đó là loại điếu cày của người
hút sành điệu. Nghĩa từ từ nhả làn khói xanh mù mịt, đầu lắc lư, mắt
lim dim nhìn bóng hàng cau dưới sân.
Tôi hỏi:
- Ở Mỹ cả tháng có nhớ thuốc lào không?
- Nhớ muốn chết !
- Thế xử lý thế nào?
Nghĩa thật thà:
- Thỉnh thoảng trốn vào toa-lét, lấy giấy cuộn hút một điếu . Nhạt thếch nhưng cũng đỡ thèm!
- Nghe nói nếu không nhớ thuốc lào ông ở Mỹ luôn?
- Bậy nào!
Nghĩa
hút thêm một điếu thuốc lào, uống chén nước chè xanh và cười phô hàm
răng trắng bóng. Mấy tháng trước Nghĩa chỉ còn vài cái răng, miệng móm
như ông lão. Giờ hai hàm răng đều tăm tắp. Người ta nói cái răng cái
tóc là góc con người quả không sai! Khuôn mặt Nghĩa vẫn gồ ghề đen đúa,
nhưng có hàm răng mới, không móm như trước nhìn vuông vức, như trẻ ra
mấy chục tuổi. Đồ giả thường đẹp.
Bốn
mươi tám năm trước, Nghĩa với tôi lên đường nhập ngũ. Bấy giờ hai đứa
vừa bước vào tuổi 18. Tuy bằng tuổi nhau nhưng Nghĩa cao lớn hơn tôi
nhiều. Nghĩa chỉ học hết cấp hai, rồi đi làm thợ xẻ trên miền ngược, cơ
bắp phát triển, còn tôi mài đũng quần hết cấp ba, lười vận động người
mảnh như thanh tre bổ đôi. Hôm tiễn chúng tôi ở sân đình, mẹ tôi cứ nắm
áo Nghĩa, dặn đi dặn lại : “ Thím gửi em cho cháu đấy Nghĩa
nhá!”. Nghĩa hứa: “ Thím yên tâm, chúng cháu sống chết có nhau!”.
Nhưng
hai đứa chỉ ở với nhau đúng ba ngày. Vừa lên đến Tam Nông, Phú Thọ,
Nghĩa to khỏe, nhanh nhẹn, được chọn vào đặc công, niềm tự hào của tuổi
trẻ ngày ấy, tôi nhỏ bé phải ở lại đơn vị công binh. Hai đứa buồn bã
chia tay nhau trong khu rừng cọ giữa buổi chiều mưa sùi sụt. Tử hôm
ấy, chiến tranh cuốn chúng tôi đi mỗi đứa một ngả, quên cả năm tháng,
chẳng biết sống chết thế nào!
Ngày
Sài Gòn giải phóng, tôi về phép lần đầu sau mười năm xa quê, ghé qua
nhà Nghĩa. Ngôi nhà năm gian rui mè khang trang của gia đình Nghĩa trước
kia, giờ đã biến thành là nhà trẻ. Bầy trẻ con rứu rít quanh cô giáo
Thảo. Tôi hỏi thăm, Thảo nói:
- Anh Nghĩa đi kinh tế mới rồi anh ạ!
- Ở đâu em?
- Em không biết anh ạ!
Mấy
năm sau, mỗi lần về quê, tôi lại hỏi thăm Nghĩa, nhưng bặt vô âm
tín. Tôi tưởng chả bao gặp lại người bạn cùng xóm nữa, không ngờ lần
này về quê lại gặp Nghĩa. Nghĩa nói với tôi, giọng rưng rưng:
-
Tôi nhập ngũ với ông 1965, năm 1973 tôi ra quân, về quê được gần một
năm thì đi kinh tế mới. Đi biệt từ ngày ấy, gần bốn chục năm rồi, bây
giờ mới quay về , nhìn quê hương vừa quen vừa lạ, bọn trẻ không biết
mình là ai, buồn quá!
Tôi
nắm bàn tay khô gầy của Nghĩa, nhìn khuôn mặt gồ ghề chất phác, đôi mắt
ngây ngây khi anh say thuốc lào,cảm thấy ngậm ngùi đồng cảm, bỗng nhớ
một bài thơ Đường, liền đọc và dịch cho anh nghe:
Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi
Hương âm vô cải mấn mao tồi
Nhi đồng tương kiến bất tương thức
Tiếu vấn khách tòng hà sứ lai!
(Lúc trẻ xa nhà già trở lại
Giọng nói chưa quên tóc, râu phai
Trẻ con nhìn mặt không quen biết
Cười hỏi lão từ đâu tới đây?)
Nghĩa nhẩm đọc lại, cười chua chát:
- Số phận chúng ta khốn nạn quá!
Chúng
tôi ngồi trên chiếc chõng tre kê giữa sân nhả trẻ, ngôi nhà vốn dĩ của
cha mẹ Nghĩa. Cái sân gạch xây bằng gạch lục, gắn hèm, từ đầu năm sáu
mươi thế kỷ trước, qua bao tháng năm đã vẹt mòn, in bóng hàng cau già.
Tôi bỗng nhớ những đêm trục lúa , tiếng trục đá kêu cót két lẫn tiếng
cười, tiếng điếu cày rít sòng sọc, mùi rơm tươi thơm ngái nồng nàn.
Ngày ấy xa lắm rồi, không bao giờ quay lại nữa. Nhưng còn sống ngày nào
chúng tôi còn nhớ, nhớ da diết, nhớ cháy lòng ! Đó là những ngày tháng
tươi đẹp, trước khi chúng tôi làm người lính, dấn thân vào một cuộc
chiến tranh, mà lúc đó chúng tôi nghĩ mình là những anh hùng! Giờ mỗi
lần gặp nhau, nhớ lại, trong lòng chúng tôi vừa tự hào về một thời sôi
nổi, vừa quặn thắt đớn đau, và có gì vừa trăn trở vừa tiếc nuối về một
thời khờ dại, đã hiến trọn trái tim cho cái lý tưởng mà nay nhìn đời mới
thấy viển vông, gửi trọn niềm tin cho bọn dối trá lọc lừa, “ăn mừng”
chiến thẳng bằng tham nhũng!
Số phận con người được định đoạt bằng vài dòng lý lịch, như một bàn án chung thân.
Nghĩa
kề, ngày ấy sau khi chia tay tôi, Nghĩa vào đơn vị đặc công, huấn luyện
gần một năm, rồi đi B, ở chiến trường đường 9, Nam Lào. Nghĩa chiến
đấu dũng cảm, hơn một năm đã được kết nạp đảng, được đề bạt trung đội
phó .
Trên
ngực Nghĩa sẽ đỏ rực tấm huân chương chiến công, và chắc chắn sẽ lên
chức trung đội trưởng, đại đội trưởng, tương lai sẽ rạng rỡ nếu không
xảy câu chuyện rắc rối vào một buổi chiều giữa tháng 7 – 1968.
Đó
là vào một buổi chiều mùa hè, nắng như đổ lửa. Trung đội Nghĩa làm
nhiệm vụ trinh sát tiền nhập cao điểm 689 căn cứ Khe Sanh, chuẩn bị
trận đánh sắp tới. Với quyết tâm “sờ tận tay day tận mặt”, những chiến
sỹ trinh sát đặc công tìm cách vào tận hàng rào cuối cùng.
Rừng
núi , sông suối, địa hình hiểm trở vốn là chỗ dựa của người lính trinh
sát, nhưng ở đây, qua bao đợt bom chà đi sát lại , cây cối đổ gãy, hố
bom chồng chất, những cánh rừng bạt ngản đã biến thành bãi đất hoang.
Những con đường mòn quen thuộc trước kia trở nên xa lạ, mất hút giữa
những bãi mìn, những hàng rào kẽm gai tầng tầng lớp lớp, có hệ thống
cảm biến điện tử cực kỳ bén nhạy. Trung đội Nghĩa ngụy trang bằng cách
tắm bùn đất đỏ bazan, luồn lách như con dế trũi giữa những hố bom ,
cắt từng khúc giây kẽm gai, gỡ từng trái mìn, trái pháo sáng , tiến
vào cao điểm. Chỉ cần một sơ xuất nhỏ của một chiến sỹ , hệ thống báo động sẽ rung lên , bom đạn sẽ đồng loạt chụp xuống đầu đơn vị.
Với
kỹ thuật điêu luyện, cán bộ chiến sỹ trong trung đội trinh sát của
Nghĩa không để sảy ra sai sót nào. Họ bò vào tận cao điểm , vẽ từng ụ
súng, tháp canh, quan sát kỹ cả hành vi của lính Mỹ tắm dưới chân
tháp nước dã chiến cười đùa trêu chọc nhau. Nghĩa đánh dấu tỷ mỷ vào
bản đồ và ghi nhớ từng chi tiết trong óc. Bất ngờ trước ống nhòm của
Nghĩa , hiện lên một người lính Mỹ ngồi trên vách hào, say xưa ngắm tấm
ảnh một đứa bé gái. Anh ta không để ý gì tới chung quanh. Khẩu súng M16
dựa vai, đôi mắt đắm đuối nhìn tấm ảnh. Anh đưa tấm ảnh lên môi,
âu yếm hôn chùn chút, hôn đi hôn lại, nước mắt ứa ra.
Lần
đầu tiên Nghĩa nhìn thấy người lính Mỹ biểu lộ tình cảm với con. Thì
ra họ cũng có gia đình, cha mẹ, vợ con, họ cũng như mình, biết yêu
thương, đắm đuối, chứ đâu phải là những người lính đánh thuê khát máu
như trong những bài học ở nhà trường phổ thông, những bài lên lớp
chính trị của chính trị viên và những bài thơ Tố Hữu?
Buổi
chiều trôi đi châm chạp, căng thẳng như một sợi dây đàn, trong lòng
Nghĩa bỗng nặng trĩu một cảm giác mới lạ. Hình ảnh người lính Mỹ âu yếm
hôn hít ảnh con gái cứ lởn vởn trước mắt Nghĩa .
Khi
trung đội rút ra khá xa thì bất ngời chạm trán một trung đội Mỹ từ Tà
Cơn nống ra. Cuộc tao ngộ chiến bên dòng suối cạn khiến một chiến sỹ
trung đội Nghĩa hy sinh, phía đối phương hai người chết một bị thương.
Vì đã xế chiều, rừng núi âm u, nên toán lính Mỹ rút chạy , bỏ lại hai
xác chết và người lính bị thương.
Đó
là một người lính rất trẻ, da trắng, cao khoảng một mét bảy, mặt thon,
mắt sâu. Anh ta bị thương vào đầu gối, gãy chân, không đi được. Nghĩa
dìu anh ta một đoạn, mệt quá không đi tiếp được nữa.
Cần
phải rút nhanh khỏi trận địa, nếu không có thể đối phương sẽ bắn
pháo hủy diệt. Đó là kinh nghiệm đúc kết từ thực tế xương máu . Người
lính Mỹ bị thương đã ngăn cản cuộc rút lui cấp tốc của đơn vị.
Trung đội trưởng Thành nói với Nghĩa:
- Không bắt tù binh nữa, khử thằng Mẽo đi!
Nghĩa nhìn khuôn mặt hiền lành của người lính Mỹ, nói với Thành:
- Nó còn trẻ quá , đừng giết nó!
Thành gắt:
- Cậu thương thằng ác ôn hả?
- Nó là lính chiến như tụi mình !
- Cậu mất lập trường rồi! Bắn đi!
- Tôi không đồng ý bắn tủ binh!
Thành thét lên ra lệnh:
- Bắn ! Chần chừ chết cà nút bây giờ!
Nghĩa
vẫn không chấp hành. Thành chĩa nòng súng vào ngực người lính Mỹ.
Người lính Mỹ hiểu số phận của mình, nhắm mắt lại chờ đợi. Nghĩa bỗng
nhớ đến hình ảnh người lính trên cao điểm lúc nãy. Anh gạt khẩu súng của
Thành sang một bên, lấy thân mình che cho người lính Mỹ.
Thành trợn mắt nói :
- Tôi cảnh cáo đồng chí!
Nghĩa
không nói gì, đẩy Thành ra . Thành hậm hực ra trung đội rút nhanh
khỏi trận địa, bỏ Nghĩa lại với ngưới lính Mỹ bị thương.
Nghĩa
lấy băng cá nhân của mình, băng vết thương cho người lính Mỹ. Anh ta
ra hiệu khát nước, Nghĩa tháo bi đông nước của mình đưa cho anh ta ,
và chỉ tay về phía đơn vị anh ta vừa rút quân. Người lính Mỹ nắm chặt
bàn tay Nghĩa nói “Thank”. Nghĩa để người lính mỹ lại cùng bi đông
nước, chạy theo trung đội.
Những
cuộc họp kiểm điểm từ tổ đảng, chi bộ đến hội đồng quân nhân liên tục
dành cho Nghĩa. Bao nhiêu tội trạng chụp xuống đầu Nghĩa. Nào là mất
lập trường, nhụt ý chí chiến đấu, biến chất , thoái hóa, phản bội.
Nghĩa bị khai trừ đảng, cách chức trung đội phó, bị giam giữ nghiêm
ngặt, chờ đưa ra Tòa án binh.
Cũng
may trận đánh Khe Sanh cuối tháng 7-1968 ta thắng, Nghĩa được miễn
trách nhiệm hình sự. Nhưng từ đó Nghĩa không được tham gia chiến đấu mà
được biến chế vào một đơn vị hậu cần, chuyên phát rẫy tăng gia, gùi
gạo, gùi đạn. Tháng 8-1969, trong một lần gùi gạo, Nghĩa bị tập kích,
bị bắt làm tù binh, bị giam ở đảo Phú Quốc, năm 1972, được trao trả ở bờ sông Thạch Hãn.
Nghĩa kể:
-
Tôi về quê, mang theo bản lý lịch bị khai trừ đảng,cách chức vì tư
tưởng thoái hóa, mơ hồ, đồng lõa với giặc. Xã đội trưởng nói với tôi:
-
Người ta đi chiến đấu mang vinh quang về cho địa phương, còn anh mang
về vết nhục, biết bao giờ chúng tôi mới tẩy rửa được đây?
Bố mẹ tôi không dám bước chân ra ngoài đường vì cả làng xôn xao bàn tán tôi bị kỷ luật , bị đơn vị đuổi về.
Cô Chuyên , ngày trước có cảm tình với tôi, trong thời gian tôi tại ngũ
thường qua lại, gắn bó với bố mẹ tôi. Bây giờ thấy tôi Chuyên lánh mặt.
Sau
tám năm đi bộ đội trở về, tôi không được hưởng một tý quyền lợi, chế
độ, lại bị khinh bỉ như kẻ phạm tội, tôi buồn quá làm đơn xin đi kinh tế
mới. Chủ nhiệm hợp tác xã nói với tôi:
- Anh xin đi tự do thì phải tự lo lấy . Trước khi đi phải thanh toán hết các khoản nợ của hợp tác!
Bố
mẹ tôi có năm người con. Hai chị gái lấy chồng xa. Thằng em kế tôi nhập
ngũ 1968 hy sinh 1969 . Cô gái út đang học lớp mười. Trong những năm
tôi tại ngũ , gia đình sống nhờ vào hơn sào ruộng phầm trăm, trong đó
có tiêu chuẩn của tôi. Giờ người ta bảo tôi bị kỷ luật không cho hưởng
tiêu chuẩn, đòi lại ruộng phần trăm, bắt phải bồi thường 300 kg thóc.
Không có thóc, bố mẹ tôi đành phải gán ngôi nhà cho hợp tác trừ nợ. Tôi
cùng bố mẹ và đứa em gái rời nhà đi lúc nửa đêm, như trốn chạy khỏi quê
hương, sợ nhìn thấy hàng xóm.
Nghĩa
lên Phú Thọ làm nghề xẻ gỗ thuê. Tám năm sau anh mới lấy vợ và sinh
được thằng con trai đầu lòng. Không ngờ gần chục năm ở Tây Nguyên ,
Nghĩa đã bị nhiễm chất độc màu da cam, nên con anh bị di chứng, thường
lên cơn động kinh, dặt dẹo rất khó nuôi. Mỗi ngày mấy lần nhìn con lên
cơn động kinh co giật , vợ chồng anh chỉ biết quỳ xuống kêu van trời
Phật.
Năm
tháng qua đi, Nghĩa và gia đình sống chiu lủi, nghèo hèn như thế. Anh
không còn nhớ đến những chuyện sảy ra. Anh cặm cụi làm ăn , kiếm tiền
chạy chữa bệnh cho mình và đứa con trai .
Trong khi ấy, ở tận cuối trời, lại có một con người luôn nhớ đến anh. Đó là người lính Mỹ , Wyliam Coper.
Buổi
chiều tháng 7-1968, ở Khe Sanh, sau khi được Nghĩa băng bó vết thương
và tha chết, Coper đã bắn một phát pháo hiệu gọi cấp theo quy định của
quân đội Mỹ. Đồng đội của Coper đã tìm đến dòng suối cạn, đưa anh về
căn cứ, và chuyền về Sài Gòn chữa vết thương. Từ giờ phút ấy Wyliam
Coper giữ chiếc bi đông của Nghĩa bỏ lại như một báu vật. Sợ mình
chết, bị thất lạc, anh gửi chiếc bi đông đó cho mẹ ở bang Wasington,
và viết thư, kể cho mẹ nghe về người lính Quân đội nhân dân Việt Nam ,
có tên và số đơn vị khắc trên bi đông đã cứu sống mình như thế nào.
Năm
1970, Wyliam Coper được trở về Mỹ và giải ngũ. Anh vào học trường đại
nông nghiệp , sau đó lấy vợ, sinh được một con gái,và trở thành chủ
trang trại trồng nho theo nghề cha mẹ. Dù cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy
nhưng không lúc nào Coper quên hình ảnh người lính trẻ đối phương cứu
mình.
Anh
tìm mọi cách dò la tin tức, liên hệt với cả cơ quan phối hợp tìm hài
cốt binh lính chiến tranh( M.I.A) để tìm đơn vị của Nghĩa. Khi Mỹ-
Việt bình thường hóa quan hệ, anh đã tham gia vào một tổ chức trợ nạm
nhân chất độc da cam để có cơ hội sang Việt Nam tìm Nghĩa.
Hàng
chục năm qua đi với một quyết tâm không biết mệt mỏi, bay qua bay lại
Việt Nam 26 lần, vượi qua bao nhiêu nhòm ngó, hạch sách, kỳ thị, Wyliam
Coper đã tìm được Nghĩa. Và sau đó Wyliam Coper đã tìm mọi cách đưa con
anh Nghĩa sang Mỹ chữa bệnh, rồi vào học trường đại học nông nghiệp nơi
trước Wyliam Coper đã học. Đã hai lần Nghỉa được Wyliam Coper mời qua Mỹ
thăm con và gia đình anh.
Tôi
không muốn kể tỉ mỉ cuộc tìm kiếm của Wyliam Coper và những việc anh đã
làm để giúp đỡ gia đình người cựu chiến binh Lê Hữu Nghĩa bạn tôi, bởi
cho đến bây giờ vẫn chưa hết những điều mà người ta gọi là “nhạy cảm”.
Anh Nghĩa nói với tôi:
-
Vừa qua tôi sang Mỹ thăm con và được gia đình ông Coper đưa đi khám
bênh, tẩy chất độc da cam, và làm cho bộ răng giả. Vừa về nước đã bị gọi
lên chính quyền chất vấn là sang Mỹ phát biểu những gì? Có nói xấu đảng
nhà nước không? Được bao nhiêu tiền? Số phận tôi và con tôi vẫn còn bị
họ nắm trong tay anh ạ!
Chiếc
loa phát thanh treo trên cây xoan bỗng vang lên bài hát “Việt Nam trên
đường chúng ta đi, ...mà vui sao ta chẳng nói nên lời...ta đi giữa tình
thương của đảng" và thông báo kết quả 100 % nhân dân trong xã hoan
nghênh bản dự thảo sửa đổi Hiến Pháp của đảng là sáng suốt, hợp lòng
dân.
Anh
Nghĩa lại 'rít' một điều thuốc lào, nhả khói, và nhổ toẹt một bãi nước
bọt xuống sân rồi nhìn về phía cái loa trên cành xoan đầu ngõ!