Lưu Vũ
Ông Nguyễn Trung hoàn toàn sai khi nói việc chuyển hoá sang thể chế dân chủ của các nước Đông Âu là "thảm hoạ đen".
Rất đáng tiếc, những người trong nước khó có cơ hội được đọc “Nhật
ký Rồng rắn” của cố trung tướng Trần độ, “Chia tay ý thức hệ” của tiến
sĩ Nguyễn Xuân Tụ (Hà Sĩ Phu), 5 bài luận văn của kỹ sư Đỗ Nam Hải.
Ngoài ra là những bài khác của nhiều nhà trí thức như Phan Đình
Diệu, Tương Lai, Lữ Phương, Lê Đăng Doanh, Nguyễn Thanh Giang v.v. được
đăng tải trên báo chí ngoài Việt Nam. Cũng cần nói thêm rằng, những bài
viết này, nhiều tác giả cũng đã gửi trực tiếp tới các vị lãnh đạo cao
nhất của nhà nước Việt Nam (VN).
Nếu đã đọc những bài của các tác giả nêu trên, bạn đọc đang sôi nổi trao đổi trên báo Tuổi Trẻ
hiện nay xung quanh một số ý kiến của ông Nguyễn Trung, sẽ thấy nội
dung các bài viết này của ông thực ra không có gì quá mới hoặc mang tính
đột phá đặc biệt.
Tuy nhiên, dưới góc độ khách quan, ông Nguyễn Trung, một cố vấn của
chính phủ, qua các phân tích, đề nghị của mình đã cho bạn đọc nhìn nhận
ông là người có nhiều suy tư, bức xúc với vận mệnh của quốc gia. Ở mức
độ nào đó, đây là biểu hiện của lòng can đảm, thẳng thắn trước công luận
của ông, (trong một hoàn cảnh: nói vừa phải để còn được... nói tiếp),
với hy vọng chuyển tải được những điều bổ ích đóng góp cho Đại hội đảng
X.
Tôi cũng thật sự phấn khởi trước việc báo Tuổi Trẻ, một tờ
báo – dù nằm trong điều kiện hạn chế: các phóng viên là những cán bộ của
nhà nước, của Đảng ăn lương – đã nhiều lần thể hiện bản lĩnh trong việc
tạo cho bạn đọc tiếp cận và tranh luận những vấn đề bức thiết, nhiều
khi được xem là “nhạy cảm”: dân chủ hoá xã hội Việt Nam ra sao trước xu
thế của thời kỳ hội nhập và toàn cầu hoá.
Tôi rất tâm đắc với một số vấn đề được nêu ra hết sức chính đáng của ông Nguyễn Trung như sau:
-“Đảng ta đang rất quan tâm giữ lấy con tàu, còn đảng viên rất quan tâm giữ chặt lấy vị trí của mình trên con tàu”.
- “Nếu mô hình XHCN mà chúng ta đang tìm cho thời đổi mới, và mãi
cho đến nay mới chỉ tìm thấy “định hướng xã hội chủ nghĩa” thì còn nhiều
chuyện phải bàn lắm…”.
- “Sự cố thủ rõ nhất nằm trong cố thủ về ý thức hệ và trong tha hóa,
nói cho đến cùng và thực chất thì vẫn chỉ là nằm trong tha hóa mà thôi!
Rõ ràng đây là chuyện của hệ thống…”;
- “Đảng là đảng thật sự, nhà nước là nhà nước thật sự, không thể vừa là đảng vừa là nhà nước…”(Nguyễn Trung – Tuoitre Online ngày 9-10/02/2006)
Nhận thức sai lầm vì thiếu thực tế
Trong một bài viết ngắn tôi không thể mổ xẻ, phân tích hết những vấn
đề nêu trên. Tôi chỉ muốn nói đến một kết luận sai lầm của ông mà tôi
cho rằng do ông thiếu thực tế. Đó là nhận định của ông về sự chuyển hoá
từ chế độ toàn trị cộng sản sang thế chế chính trị đa nguyên, dân chủ
tại các nước Đông Âu và các nước thuộc Liên Xô cũ. Ông cho nó là một
“hiểm hoạ đen” là “tấm gương tày đình” cần cảnh báo... (“Thời cơ vàng và hiểm hoạ đen”, Nguyễn Trung, Tuoitre Online 08/02/2006). Ở đây tôi chỉ giới hạn nói về Ba Lan, như một nhân chứng lịch sử.
Ông Nguyễn Trung và cũng như khá nhiều nhà trí thức, đảng viên hay
các vị cách mạng lão thành trong những bài viết của mình thường cho rằng
đảng cộng sản VN vẫn nên tiếp tục duy trì độc quyền lãnh đạo, chỉ cần
đảng sáng suốt thay đổi chính sách, cải cách hơn nữa để phù hợp với tình
hình phát triển mới của đất nước, thế là mọi việc sẽ tốt đẹp. Điều này
tự nó mâu thuẫn với ngay chính ý kiến ông nêu ra: vấn đề cơ bản là hệ
thống và sau đó là khái niệm tách biệt giữa đảng và đất nước.
Phong trào tranh đấu liên tục với nhiềy hy sinh, tổn thất của công
nhân toàn Ba Lan dưới sự lãnh đạo của Công đoàn Đoàn Kết, đã buộc nhà
nước cộng sản Ba Lan phải ngồi vào bàn đàm phán. Công đoàn Đoàn Kết được
hợp pháp hoá và phía cộng sản chấp nhận bầu cử tự do có giới hạn: 65 %
số ghế trong quốc hội chuyển tiếp là của phe cộng sản, 35% còn lại sẽ
thông qua bầu cử hoàn toàn tự do.
Tiến trình bầu cử được diễn ra trong hai giai đoạn, vào ngày 4 và
18/06/1989. Những người cộng sản vận động tranh cử trong trạng thái lúng
túng, vụng về. Họ đã bị thất bại thảm hại. Ngoài số ghế được ấn định
65%, họ không giành thêm được một ghế nào. Với 100 chỗ thì Công Đoàn
Đoàn Kết chiếm 99, một chỗ còn lại là của ứng viên độc lập. Một mô hình
nhà nước do nhật báo Gazeta Wyborcza đề xướng: “Tổng thống của các anh (Đảng Cộng Sản), Thủ tướng của chúng tôi (CĐĐK)”,
được thực hiện. Ngày 12/09/1989, chính phủ liên minh Cộng sản - Công
đoàn Đoàn Kết được thành lập thông qua biểu quyết của quốc hội với số
phiếu 402/415, do thủ tướng không cộng sản T. Mazowiecki đứng đầu. Phe
cộng sản với tổng thống W. Jaruzelski, Bí thư thứ nhất (tổng bí thư)
Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan (PZPR) tức đảng CS Ba Lan, nắm hai bộ
quan trọng nhất: Quốc phòng và Nội vụ.
Vào thời điểm nóng bỏng trên, tại Hà Nội đã có nhiều cuộc mít tinh
của Việt Nam ủng hộ Ba Lan xã hội chủ nghĩa, chống lại lực lượng "phản
cách mạng" Công đoàn Đoàn Kết.
Thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM) cũng có ý định tổ chức một cuộc mít tinh với tinh thần tương tự.
Nhiều cán bộ đảng viên thầm thì: Ba Lan mất nước rồi!
Vào thời điểm đó tôi đang làm việc cho Tổng lãnh sự quán (TLSQ) Ba
Lan tại thành phố HCM. Tôi đã thông báo cho Sở Ngoại Vụ TP HCM rằng, đại
diện TLSQ Ba Lan sẽ không tham dự cuộc mít tinh ấy.
Ông lãnh sự M.Ch. đã rất ngạc nhiên với sáng kiến của chính quyền
Việt Nam và nói với tôi: “Người Việt nghĩ Ba Lan mất nước là nghĩa thế
nào? Đất nước Ba Lan luôn luôn là Ba Lan và Ba Lan là trường tồn. Chỉ có
người lãnh đạo nó thay đổi mà thôi”.
Đánh đồng khái niệm Đảng hay ý thức hệ Xã hội Chủ nghĩa với khái
niệm Tổ quốc/Đất nước là một hành vi không trong sáng nếu không nói là
thiếu lương thiện, trí trá. Đúng như ông lãnh sự Ba Lan nhận xét. Và
cũng vì vậy, TP HCM đã không có một cuộc mít tinh nào để “ủng hộ” Ba
Lan!
Trong 16 năm xây dựng thể chế dân chủ, Ba Lan đã trở thành thành
viên của NATO (Hiệp ước Quận sự Bắc Đại Tây dương) vào ngày 12/03/1999,
về an ninh, thoát khỏi áp lực nhiều thế kỷ nay từ phía Nga. Từ năm 2004,
Ba Lan là thành viên Liên hiệp Âu châu (EU), thực sự có tiếng nói chủ
quyền và trọng lượng của một quốc gia độc lập, bình đẳng trước mọi đối
tác. Trong kế hoạch tài khoá 2006 – 2013 của EU, Ba Lan đã đe doạ dùng
quyền phủ quyết buộc EU phải nhân nhượng, Ba Lan được hưởng xấp xỉ 60 tỷ
Euro cho xây dựng cơ sở hạ tầng, tức là khoảng 9 tỷ đô la/năm - bằng
tổng số đầu tư nước ngoài vào Ba Lan trong năm cao nhất! - (cho một nước
với diện tích gần tương đương VN và dân số chỉ 38,1 triệu). Người dân
Ba Lan đi lại 25 nước châu Âu không cần thị thực, có thể tự do học tập,
làm việc không cần giấp phép và hưởng mọi quyền lợi an sinh xã hội tại
Anh, Thụy Điển, Na Uy, Ai len và nhiều nước khác của EU trong thời gian
tới. Đấy là chưa kể các chương trình viện trợ của Mỹ và NATO cho Ba Lan,
đặc biệt trong lĩnh vực hiện đại hoá quân đội.
Theo tạp chí bình luận kinh tế nổi tiếng The Economist (số 1/2006),
tổng thu nhập quốc dân (Gross National Product) của Ba Lan trong năm
2006 sẽ đạt 315 tỷ đô la (so với VN, 57 tỷ - cũng theo The Economist),
tức là tăng gấp đôi trong vòng 16 năm.
Ba Lan đang đứng trước cơ hội thăng tiến chưa bao giờ có kể từ khi
chuyển hoá chế độ. Kể từ năm nay, nếu được tận dụng hiệu quả toàn bộ số
quỹ 9 tỷ USD/năm do EU cấp, trong vòng 10 - 15 năm nữa, Ba Lan sẽ tạo
cho mình một bộ mặt mới với những bước phát triển đầy triển vọng tại
châu Âu.
Đa đảng là loạn - Một luận điệu xảo trá
Như đã nói ở trên, trước tình hình mới, Đảng Cộng Sản Ba Lan (PZPR))
đại hội phiên cuối cùng vào ngày 27/01/1990 và tuyên bố giải tán.
Từ ngày 17/10/1997, Hiến pháp Ba Lan mới của Cộng Hoà Ba Lan ra đời,
trong đó có điều khoản cấm các hoạt động và tuyên truyền cho chủ nghĩa
cộng sản, đặt chủ nghĩa cộng sản ngang hàng với chủ nghĩa Nazi và chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc.
Tuy nhiên, từ bỏ ý thức hệ cộng sản, hoạt động theo xu hướng dân chủ
xã hội (như nhiều đảng cánh tả khác đang cầm quyền tại Tây Âu), những
người cựu cộng sản Ba Lan đã khôn ngoan nắm bắt cơ hội của chính thể chế
dân chủ. Đồng thời với việc giải tán ĐCS, họ đã thành lập ngay đảng Xã
hội Dân chủ Cộng hoà Ba Lan - SdRP (29/01/90) do A. Kwasniewski, đã từng
giữ chức bộ trưởng Thanh niên và Thể thao thời Cộng sản, làm thủ lĩnh, ở
tuổi xáp xỉ 40. Một thời gian sau đó, SdRP nhanh chóng thống nhất các
lực lượng cánh tả để trở thành Liên minh Cánh tả Dân chủ (SLD) và tranh cử ngay vào quốc hội.
Sau 44 năm dưới chế độ cộng sản toàn trị, cuộc tổng tuyển cử tự do
đầu tiên được tiến hành: bầu tổng thống vào tháng 09/1990 và quốc hội
vào ngày 27/10/1991. Lech Walesa, thủ lĩnh CĐĐK trúng cử tổng thống, lực
lượng cánh hữu và Công đoàn Đoàn kết nắm đa số phiếu quốc hội.
Gánh nợ nước ngoài do chính quyền cộng sản để lại khoảng gần 45 tỷ
đô la. Các tổ hợp tài chính - ngân hàng phương Tây thuộc Câu lạc bộ
Paris và London đã xoá ngay cho Ba Lan dân chủ một nửa.
Trừ một vài người lãnh đạo cao cấp cộng sản phải ra toà để trả lời
về trách nhiệm của họ đối với việc ra lệnh đàn áp công nhân, làm chết
người trong một số cuộc biểu tình trước đây, đảng SLD, mà bao gồm
chủ yếu những người cựu cộng sản, qua nhiều thăng trầm, lúc lên voi lúc
xuống chó, vẫn là một lực lượng chính trị lớn trong xã hội Ba Lan hiện
nay.
Trong 16 năm vừa qua, đảng Liên Minh Cánh tả Dân chủ - SLD đã hai lần vượt qua Công đoàn Đoàn Kết và các đảng cánh hữu khác, giành được số phiếu cao nhất (trên 40%). SLD
đã liên minh với một vài đảng khác, cầm quyền trong hai nhiệm kỳ 1993
-1997 và 2001 - 2005. Còn ông A. Kwasniewski, chỉ 5 năm sau, ngày
19/11/1995, đã đánh bại huyền thoại Công đoàn Đoàn Kết Lech Walesa, nắm
chức tổng thống Ba Lan suốt hai nhiệm kỳ, 10 năm, từ 1996 – 2005. Chính
ông là người đã xin lỗi toàn dân Ba Lan về những sai lầm và tội ác mà
chế độ cộng sản đã gây ra cho Ba Lan. Chính ông là người đã ký Hiến pháp
năm 1997, loại bỏ chủ nghia cộng sản ra khỏi đời sống chính trị - xã
hội của Ba Lan.
Cả nước Ba Lan hiện nay có hơn 80 đảng phái chính trị của mọi khuynh
hướng, tuy nhiên thường chỉ từ 4 đến 5 đảng lọt vào quốc hội. Tranh
chấp quyền lãnh đạo trên sân khấu chính trị giữa các đảng lúc nào cũng
quyết liệt, thậm chí trong nội bộ các đảng (cả cánh Hữu lẫn cánh Tả)
chia rẽ, đấu đá nhau gay gắt, nhưng đất nước luôn luôn ổn định và phát
triển kinh tế nhịp nhàng.
Trong một thể chế mà thắng hay bại trong “cuộc chiến” giữa các đảng
do lá phiếu của người dân quyết định thì chẳng bao giờ có một sự “loạn”
nào như nhiều người vẫn nguỵ biện cho thể chế đa đảng (nếu có) ở VN. Khi
có thông tin tự do, nhiều chiều và biết rằng lá phiếu của mình có hiệu
lực, người dân sẽ có đủ cơ sở so sánh chương trình của các đảng và sáng
suốt lựa chọn người lãnh đạo cho đất nước theo quan điểm của riêng mình.
Không hiểu rõ bản chất của thể chế dân chủ, có luận điệu cho rằng
một thể chế đa nguyên chưa phù hợp với Việt Nam khi dân trí còn thấp.
Đây chỉ là sự biện hộ xào trá cho tư duy ù lì, bảo thủ, cố tình cắn giữ
quyền lực và đặc lợi của một thiểu số cầm quyền trong ĐCSVN. Giống như
người ta nói: không xuống nước thì chẳng bao giờ biết bơi. Tại sao ĐCSVN
bắt dân đứng mãi ở trên bờ? Nếu cho mình là "đỉnh cao của trí tuệ", là
"đội quân tiên phong của dân tộc" thì ĐCSVN hãy can đảm thử sức xem trời
cao, đất thấp ra sao qua một cuộc bầu cử tự do. Đã hèn kém, sợ mất ngai
vàng thì đừng bao giờ cao ngạo, trâng tráo coi thường trí tuệ quần
chúng mà rêu rao rằng dân trí thấp. Chỉ có "quan trí" của tập lãnh đạo ĐCSVN Việt Nam là thấp kém và hủ lậu mà thôi.
Không là "một tấm gương tày đình", ngược lại, Ba Lan cho ta
một tấm gương sáng: những người cộng sản Ba Lan đã rất thức thời trước
sự tranh đấu và đòi hỏi dân chủ của nhân dân. Họ biết đặt quyền lợi của
dân tộc trên quyền lợi của đảng. Họ thật sự lột xác, chứ không thay đổi
nửa vời theo kiểu đối phó, và đã góp phần đưa Ba Lan vào một tương lai
tốt đẹp, dân tộc không bị đổ máu mà họ vẫn giữ được quyền lợi bình đẳng
trong việc tranh quyền chấp chính.
Trong dự thảo một nghị quyết của quốc hội về vấn đề quá khứ, mới đây
thôi, trong tháng 12/2005, những người cựu cộng sản Ba Lan trong đảng SLD đã viết: “Quốc
hội Ba Lan tỏ lòng thương tiếc và tưởng nhớ đến những người Ba Lan –
những nạn nhân của sự truy bức, đàn áp chỉ vì họ muốn thực hiện ước mơ
cho một Ba lan dân chủ và tự do. (…) Kinh nghiệm của quá khứ là bài học
cho những người cầm quyền và xã hội rằng, bằng bạo lực không những không
hạn chế được nhân quyền, tự do của công dân, mà cũng không thể giải
quyết được các vấn đề cơ bản của nhà nước”. (Nhật báo Ba Lan, Gazeta Wyborcza 16/12/2005).
Thưa ông Nguyễn Trung,
Phải chăng những sự kiện và con số trên đây là "gương tày đình”, là “thảm hoạ đen”
của Ba Lan nói riêng và Đông Âu nói chung? Ông muốn chuyển thông tin
đến bạn đọc một cách vô tư và khách quan? Có phải như chúng ta thấy:
bằng chuyển hoá sang chế độ dân chủ, Ba Lan đã làm kinh tế hiệu quả
nhất, nhanh nhất?
Hệ thống dân chủ, không phải không có những bất cập, nhưng cho đến
nay loài người chưa tìm ra hệ thống nào hoàn hảo hơn. Đó chính là hệ
thống, chẳng riêng cho Ba Lan, cho Việt Nam mà cho mọi quốc gia có
nguyện vọng hướng tới tiến bộ và văn minh: mọi đảng phái, tổ chức chính
trị - xã hội đều có quyền tham dự vào việc quản trị đất nước. Còn kết
quả được hay không thì lại hoàn toàn phụ thuộc vào tiềm lực, tài năng
của các đảng trong chương trình hành động trình làng khi tranh cử.
Và chiến thắng của một đảng cầm quyền là đa số phiếu ủng hộ của
người dân. Người dân quyết định tất cả chứ không phải một ai đó, một
đảng nào đó nhân danh Tổ quốc, nhân danh Dân tộc, tự cho mình là người
điều hành đất nước duy nhất và vĩnh viễn.
Trong bất kỳ địa hạt nào, nhất là chính trị, sự cạnh tranh là hình
thức tốt nhất để con người phán quyết và lựa chọn sản phẩm tối ưu. Mọi
sự độc quyền đều dẫn đến tai họa lạm quyền và lũng đoạn xã hội. Nạn tham
nhũng khủng khiếp từ cao xuống thấp của bộ máy nhà nước cộng sản VN
hiện nay là một hậu quả nhãn tiền từ sự độc quyền dẫn đến lạm quyền và
tha hoá.
Ba Lan hay bất cứ quốc gia nào cũng đều không phải là khuôn mẫu để
nhân dân Việt Nam bê nguyên xi áp dụng cho thực tế của mình. Nhưng cấu
trúc của mọi thể chế cộng sản, công an trị đều hoàn toàn giốnng nhau.
Khát vọng tự do và dân chủ của các dân tộc cũng giống nhau. Tự do sẽ
không có nếu không tranh đấu và trả giá. Đừng bao giờ trông mong những
người lãnh đạo cộng sản nhượng bộ. Họ chỉ thay đổi khi tình huống ép họ
vào chân tường.
Dó đó, những bài học của Ba Lan, CH Czech, Hungary, Romania,
Yugoslavia, Ukraine, Georgia... luôn là những bài học vô cùng thiết thực
cho mọi người Việt Nam, cộng sản và cũng như không cộng sản, không chỉ
trong tranh đấu giành quyền tự do dân chủ mà trong cả quá trình xây dựng
dân chủ khi có nó.
Warszawa 19/02/2006