Nguyệt Quỳnh
Khóa trên cầu Pont des Arts
Tôi đi dọc giòng sông Seine trong thời tiết giá rét của mùa đông
Paris. Những tiệm cà phê dọc theo hè phố và cơn mưa nhẹ làm tôi nhớ đến
câu chuyện tình trong một nhạc phẩm kinh điển của ban nhạc Abba “Mùa hè cuối cùng của chúng ta”
(Our last summer). Đôi trai gái trong bài hát là bóng dáng thanh xuân
của bất cứ ai trong cuộc đời này. Tay trong tay, họ cười đùa trong mưa,
họ dạo bước ở Elysée, họ dừng chân trên mỗi quán cà phê. Chàng trai nói
với thiếu nữ về triết lý cuộc sống, về chính kiến, lý tưởng của anh… Có
lẽ họ đã dừng chân trên cầu Pont des Arts, cây cầu với hàng ngàn những ổ
khóa, người ta viết tên nhau trên những ổ khoá đó, vất chiếc chìa khoá
chìm sâu xuống dưới lòng sông, để lại một hình tượng tình yêu bền chặt
trên chiếc cầu.
Rồi tất cả chỉ là giấc mơ, khi họ thực sự bước vào cuộc đời. Chàng
thanh niên kia sống cuộc sống bình thường như bao nhiêu người khác, anh
làm việc trong nhà băng, mê bóng đá, sáng cắp ô đi, tối cắp ô về. Không
có gì đáng tiếc cho cuộc sống của anh, nhưng người thiếu nữ thì tiếc nhớ
cái hình ảnh lý tưởng của người bạn trai của cô vào mùa hè cuối cùng
của họ ở Paris. Đi trên đại lộ Champs-Elysées, tôi tưởng như còn nhìn
thấy hình ảnh họ qua những đôi trai gái đang thả bước trên đường và
chạnh lòng nghĩ đến lý tưởng thời trẻ của mình, của các bạn tôi.
Tôi đến từ một quốc gia bị xâu xé bởi chiến tranh, tuổi của họ, các
bạn tôi đang phải thi hành nghĩa vụ quân sự ở Campuchia thời 1979. Tôi
lại nhớ đến hai câu thơ trong một bài thơ viết về cơn mưa rừng ở Phnom
Penh: “tuổi trẻ chúng tôi lớn lên khẩu súng lại cầm tay/đâu đã biết bờ môi, vòng eo thon con gái”.
Ngày ấy, tất cả những bài thơ đều phải viết theo một chiều, phải mang
tính chiến đấu. Hai câu thơ như lời thở dài, là hai câu cuối trong một
bài thơ mà tác giả kể lại những gian nan cùng cảnh tượng anh phải chứng
kiến bạn mình bị cơn lũ rừng cuốn đi mất. Chẳng biết anh có còn sống sót
để trở về sau mùa mưa lũ, sau những biến động chính trị và tình hình
phức tạp tại Campuchia? Tuy nhiên, bài thơ anh viết thì tôi nhớ mãi cho
đến tận bây giờ.
Paris là đất nước của thành quách và lâu đài. Đi trong thành
Versailles tôi như nghe thấy tiếng vọng của quá khứ, tiếng vó ngựa lẫn
trong tiếng kèn rộn ràng. Nhiều bức tranh ghi lại các trận đánh lịch sử
của Napoleon, những bức tượng sống động của các vị tướng qua nhiều thời
đại. Tôi đi giữa cái hùng vĩ của cung điện Versailles mà nghe như cái
hồn, cái uy linh của các vị tướng ngày xưa còn lẩn quất đâu đây. Chẳng
biết khi nào quê hương tôi lấy lại niềm tự hào để những bức tranh hoành
tráng về những trận đánh lịch sử như Đống Đa, Rạch Gầm, Xoài Mút được
treo trong các viện bảo tàng. Để du khách có thể cảm nhận được cái hồn
của Tổ Quốc tôi trong mỗi bước chân qua; mà không phải là những đồi cù,
những siêu thị, những vũ trường, nơi chốn mà người ta chỉ cần vung tiền
ra là có thể dễ dàng mua được những cái thật đắt giá như nhân phẩm, văn
hoá, lịch sử, … của một con người.
Thế giới có thể đang nhìn đất nước tôi với một con mắt khác. Làm sao
người ta có thể giải thích được cũng chính đất nước này, chính những con
người đã từng đánh Tây, đuổi Mỹ, sau chiến thắng được mệnh danh là vĩ
đại, là thần thánh, bỗng trở nên nhu nhược một cách lạ lùng! Hình ảnh
người anh hùng áo vải Quang Trung cùng những hổ tướng thời Tây Sơn cứ
lởn vởn trong đầu khi tôi ngắm nhìn những trận đánh lịch sử của nước
Pháp. Chỉ có dân tôi mới biết rõ, chỉ có dân tôi mới nhìn rõ những chiến
tích cùng những gian nan của tiền nhân còn nguyên vẹn trên từng tấc
núi, gang sông. Tại Rạch Gầm, Xoài Mút, hiện nay vẫn còn dấu vết đá hàn
ngang qua sông Tiền, nơi ngày xưa người dân ở đây đã cùng với quân Tây
Sơn hàn sông để ngăn đường rút binh của chiến thuyền quân Xiêm La. Nơi
đây còn ghi dấu niềm kiêu hãnh của người xưa qua câu hò đêm đêm trên
sông nước: “Chẻ tre bện sáo cho dày/Ngăn ngang sông Mỹ có ngày gặp nhau”.
Phải là đất nước của những con người lẫm liệt lắm người ta mới gặp nhau
ở nơi chốn đó. Nơi người ta quên chính thân mình, cùng đổ mồ hôi để
ngăn sông, cùng đổ máu xương để gìn giữ bờ cõi.
Để có những Rạch Gầm, Xoài Mút phải có những người chẻ tre, bện sáo,
phải có những người vác đá ngăn sông. Để có một chiến thắng Đống Đa lẫy
lừng, phải có tám ngàn người sẵn sàng ngã xuống giữa khói lửa của đồn
Ngọc Hồi. Nhìn đỉnh cao của ngọn sóng trắng chúng ta nhớ đến những con
sóng nhỏ mà nó tựa vào. Tôi tin vào dân tôi, tôi tin vào những con sóng
ngầm nằm bên dưới của ngọn sóng.
Cuối năm, cùng với thế giới, nước Pháp ngậm ngùi đưa tiễn Nelson
Mandela, người được mệnh danh là người hùng bất bạo động của đất nước
Nam Phi. Một dòng chữ chạy ngang trên tháp Eiffel ghi ngày sinh và ngày
qua đời của ông. Nhớ đến câu nói của Nelson Mandela, lòng tôi chùng
xuống, một cảm giác vừa thương cảm vừa hãnh diện khi chợt nghĩ đến những
Vi Đức Hồi, Điếu Cày, Lê Quốc Quân… “Một xã hội mới không thể được
tạo ra bởi những người khoanh tay đứng nhìn từ xa mà phải bởi những
người đứng giữa chiến trường, chiến bào tả tơi vì bão tố và cơ thể thì
bầm dập vì trận mạc”.
Lý tưởng, hoài bão của Vi Đức Hồi, Điếu Cày đã phải trải nghiệm bằng
máu xương của đồng đội, của cả một thế hệ thì nó không thể một ngày bỗng
bốc hơi, bỗng biến mất. Các anh đã can đảm đem chính thân mình bước vào
một cuộc chiến mới, chính sự hy sinh đó đang dẫn lối cho những người
trẻ men theo. Những vết bầm, vết máu trên mặt của Lê Quốc Quyết, Angust
Anh là câu trả lời cho sự góp mặt của những con sóng nhỏ. Lời nhắn gởi
của Nguyễn Đặng Minh Mẫn hay của Trần Minh Nhật trước toà là lời khẳng
quyết cho sự góp mặt của cả một thế hệ Việt Nam. Tôi tin vào họ, những
con người ngày nào hàn đá ngang sông Tiền, đang cùng nhau bước ra từ
lịch sử.
Nguyệt Quỳnh