Minh Việt
Khi quan sát quá trình dân chủ hóa ôn hòa xảy ra ở Miến Điện trong
vài năm gần đây, nhiều người Việt Nam thầm ước mong rằng chính quyền
Việt Nam cũng sẽ sáng suốt tự cải cách thành một chính quyền dân chủ. Họ
hi vọng vậy một phần vì nghĩ rằng đảng Cộng Sản là một lực lượng bất
khả chiến bại vì có số lượng thành viên áp đảo, nắm quân đội và công an,
và mọi phương tiện, vật chất khác, trong khi các phong trào dân chủ quá
nhỏ lẻ. Với một niềm tin như thế, họ ngại ngần tham gia vào các tổ chức
dân chủ đối lập dù ôn hòa nhất, và nhiều lắm là đứng lên góp một tiếng
nói hay vài kiến nghị với hi vọng thức tỉnh được những lãnh đạo đảng
Cộng Sản. Mỗi khi các lãnh đạo đảng Cộng Sản có một vài phát biểu hàm ý
dân chủ, họ lại tiếp tục nuôi hi vọng.
Những nghiên cứu chính trị nghiêm túc cho thấy rằng đảng cầm quyền
không bao giờ tự nguyện chia sẻ quyền lực nếu họ không gặp các thách
thức to lớn về chính trị mà nguy cơ là họ sẽ bị mất quyền. Chỉ khi đối
mặt với một nguy cơ mất quyền họ mới thỏa hiệp. Cũng như chơi cờ, một
đấu thủ sẽ không bao giờ chịu hòa nếu anh ta đang nắm phần thẳng; anh ta
chỉ đồng ý hòa khi anh ta cảm thấy bắt đầu núng thế. Miến Điện cũng
không phải là một ngoại lệ.
Năm 1948, Miến Điện chính thức độc lập khỏi Anh và trở thành một nước
cộng hòa nghị viện. Chính quyền đầu tiên của Miến Điện dưới sự dẫn dắt
của thủ tướng U Nu định hướng biến Miến Điện thành một nhà nước phúc lợi
và tiến hành một nền kinh tế tập trung. Chính sách kinh tế này đẩy Miến
Điện từ một nền kinh tế thịnh vượng ở khu vực Đông Nam Á trong thời
thuộc địa Anh vào một cuộc khủng hoảng kinh tế. Kinh tế khủng hoảng, thu
thuế không đủ chi cho nhân viên chính phủ, chính quyền xử lý bằng cách
in thêm tiền, và lạm phát tăng vọt.
Năm 1962, tướng Ne Win đảo chính và tiến hành thành lập một nền kinh
tế kiểu xã hội chủ nghĩa, quốc hữu hóa tất cả các ngành công nghiệp, trừ
nông nghiệp. Đất nước tiếp tục rơi vào một cuộc khủng hoảng kinh tế
toàn diện.
Tình trạng kinh tế quá đói khổ dẫn đến các cuộc biểu tình diễn ra và
lập tức bị đàn áp. Năm 1962, sinh viên trường đại học Rangoon biểu tình,
bị dập tắt, chết 15 sinh viên. Năm 1974, các cuộc biểu tình chống chính
phủ nhân đám tang của U Thant, cựu Tổng Thư Kí Liên Hiệp Quốc người
Miến Điện, bị dập tắt. Các cuộc biểu tình của sinh viên sau đó diễn ra
trong các năm 1975, 1976, và 1977 đều lần lượt bị đàn áp.
Ngày 8 tháng 8 năm 1988, Cuộc Nổi Dậy 8888 bắt đầu với các cuộc biểu
tình chống chính phủ ban đầu bởi các sinh viên ở Rangoon sau đó nhanh
chóng lan ra toàn quốc. Phong trào phản kháng lúc này bao gồm đủ mọi
thành phần xã hội. Một tháng sau, phong trào phản kháng bị dập tắt khi
đảo chính quân sự xảy ra và chính quyền quân nhân Miến Điện được thiết
lập. Sau Cuộc Nổi Dậy 8888, đảng Liên Đoàn Quốc Gia vì Dân Chủ (NLD) của
Aung San Suu Kyi được thành lập.
Lúc này, dưới áp lực cô lập của thế giới dẫn đầu bởi các nước Phương
Tây, chính quyền quân nhân bắt đầu tìm kiếm một giải pháp nhằm tháo gỡ
tình trạng bị áp lực. Họ tổ chức một cuộc tổng tuyển cử nhằm chọn ra một
ủy ban để soạn thảo hiến pháp mới cho Miến Điện. Trong cuộc tổng tuyển
cử này, NLD của Aung San Suu Kyi dành được 392 trên tổng số 492 ghế.
Chính quyền quân nhân từ chối kết quả.
Các chính phủ phương Tây sau đó tiếp tục lên án, cô lập và cấm vận
kinh tế Miến Điện. Nền kinh tế lâm vào bi đát hơn. Cung không đủ cầu
khiến mức lạm phát cao đẩy nền kinh tế vào cuộc khủng hoảng lạm phát
triền miên. Khi nền kinh tế lâm vào khủng hoảng, thu ngân sách không đủ
trả lương cho nhân viên nhà nước, chính quyền in tiền và đẩy nền kinh tế
tiếp tục lún sâu vào khủng hoảng. Trong suốt thập niên 1990 cho đến năm
2007, lạm phát trung bình khoảng 25%/ năm. Tháng 4 năm 2006, chính
quyền tăng mức lương cho nhân viên nhà nước vì lạm phát quá cao và lương
không đủ tiêu, giá cả lập tức tăng vọt từ 30% đến 60% ở các mặt hàng
lương thực, thực phẩm. Nền kinh tế chao đảo liên tục, trong suốt thập
niên 2000, lạm phát cao nhất là năm 2002-2003 với 58% và thiểu phát vào
năm 2001-2002 với -1.7%/năm. Tỉ giá hối đoái của chính thức của chính
phủ cao hơn mức giá chợ đen đến hai trăm lần.
Mặc dù chìm trong các cuộc khủng hoảng kinh tế triền miên, chính
quyền quân nhân Miến Điện vẫn không hề nao núng và tiếp tục cầm quyền
với bàn tay sắt. Năm 2007, lúc lạm phát vọt lên 30%/năm, cuộc nổi dậy
của các nhà sư diễn ra và họ tiếp tục đàn áp.
Tuy vậy, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 vào năm sau đó đã
đánh gục họ. Mặc dù bị cô lập với thế giới phương Tây, chính quyền quân
nhân Miến Điện vẫn nhận được sự đầu tư và giao dich từ vài nước châu Á
như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Singapore, Hàn Quốc. Gỗ và đá quý của
Miến Điện là nguồn thu ngoại tệ chính của Miến Điện bên cạnh du lịch và
nguồn kiều hối từ các Miến Kiều. Cuộc khủng hoảng kinh tế một cách gián
tiếp đã khiến khoản thu nhập nầy giảm sút đáng kể, và hậu quả là nền
kinh tế trở nên khó khăn hơn.
Lúc này, chính quyền quân nhân Miến Điện đứng trước hai lựa chọn hoặc
là tiếp tục đàn áp duy trì quyền lực, đối diện với các cuộc nổi dậy sắp
diễn ra vì kinh tế khủng hoảng nặng hơn và người dân quá đói khổ, hoặc
là bắt tay với NLD như một chiếc phao để dân chủ hóa và nhận được viện
trợ từ phương Tây nhằm tiếp tục giữ được phần nào đó quyền lợi và quyền
lực cho mình. Chính quyền quân nhân Miến Điện đã lựa chọn chọn lựa thứ
2.
Bắt tay với NLD để cải cách dân chủ là một giải pháp thỏa hiệp của
chính quyền quân nhân nhằm cứu vãn quyền lực và duy trì quyền lợi cho
chính mình. Ở đây chúng ta phải có một nhận xét rằng cuộc cải cách dân
chủ của Miến Điện sẽ không hề dễ dàng nếu tổng thống Thein Sein của Miến
Điện không có được sự ủng hộ rộng rãi của các tướng lĩnh trong quân
đội, những người đang thấy quyền lợi kinh tế của mình giảm sút và quyền
lực chính trị đang bị đe dọa.
Trong suốt một thời gian dài, nền kinh tế của Miến Điện nằm trong tay
các tướng lĩnh. Các cơ sở kinh doanh trong nền kinh tế Miến Điện đều do
cách thành viên gia đình hay thân thích của các tướng lĩnh kiểm soát.
Sau cuộc nổi dậy 1988, đứng trước sự cô lập và cấm vận của phương Tây
nguy hại đến mối lợi kinh tế của các tướng lĩnh, họ nghĩ đến giải pháp
cởi mở chính trị với hi vọng nhận được sự nới lỏng trừng phạt từ các
nước phương Tây. Họ đã cẩn thận bắt giam các lãnh tụ nổi tiếng, kể cả đã
giam lỏng Aung San Suu Kyi tại nhà, và hi vọng rằng việc thiếu các lãnh
tụ dân chủ có tiếng và sự sợ hãi sẽ giúp phe quân nhân dành thắng lợi
trong cuộc bầu cử chọn ra các thành viên soạn thảo hiến pháp năm 1990.
Họ đã mắc một sai lầm là đánh giá quá thấp người dân. Đa số ghế dành cho
NLD là một tiếng nói phản kháng mạnh mẽ của người dân đối với phe quân
nhân. Đứng trước sự sợ hãi mất quyền lực và quyền lợi, phe quân nhân
quay lại đàn áp.
Mặc dù sống trong sự cấm vận của các nước phương Tây, giới quân nhân
vẫn còn làm ăn được nhờ hợp tác với một vài nước châu Á, chủ yếu là
Trung Quốc, Ấn Độ, Singapore, Thái Lan và Hàn Quốc. Cuộc khủng hoảng năm
2008 một lần nước đe dọa mối lợi kinh tế của các tướng lĩnh bên cạnh
nguy cơ người dân nổi dậy một lần nữa khiến phe tướng lĩnh lần thứ hai
chọn giải pháp thỏa hiệp chính trị. Lần này phe quân nhân cẩn thận hơn
thảo ra sẵn một hiến pháp với đặc quyền dành cho giới quân đội và chuẩn
bị sẵn một đảng của quân đội trước khi đưa ra trưng cầu dân ý.
Quan sát quá trình dân chủ hóa Miến Điện chúng ta thấy rằng phe cầm
quyền Miến Điện chỉ thực sự thỏa hiện khi quyền lợi và quyền lực của họ
bị đe dọa, năm 1990 cũng như năm 2010. Sự đe dọa chỉ thực sự diễn ra khi
phe cầm quyền đứng trước một đối thủ tiềm năng có khả năng quy tụ được
nhân dân, ở đây là NLD với Aung San Suu Kyi. Mặc dù các lãnh tụ của NLD
đa số bị bắt hoặc giam lỏng, NLD vẫn sống và hiện diện trong suy nghĩ
của người dân Miến Điện. Nếu không có một lực lượng đối lập mạnh và
cương quyết, mạnh theo nghĩa lực lượng đối lập chiếm được cảm tình của
người dân và là lựa chọn của người dân cho tương lai của đất nước, những
xáo trộn cho dù rất lớn cũng sẽ không bao giờ là đe dọa đối với phe cầm
quyền. Trong một ván cờ, đấu thủ sẽ không bao giờ cảm thấy bị đe dọa
hay nao núng, nếu biết rằng đối phương không có quyết tâm và hậu thuẫn.
Chính vì vậy, khi muốn tiến trình dân chủ diễn ra, trí thức không thể
chỉ ngồi hi vọng giới cầm quyền của đảng Cộng Sản tự cải cách. Nhiệm vụ
của trí thức phải là góp phần xây dựng đội ngũ lãnh đạo nòng cốt lực
lượng dân chủ và gây dựng và động viên niềm tin nơi nhân dân. Dân chủ và
tiến bộ có cái giá của nó và cũng chính vì cái giá mà một dân tộc dám
trả đó mới làm nên giá trị của dân chủ và tiến bộ.
Minh Việt