Carl Minzner | ChinaFile
Mai Xương Ngọc dịch
Mai Xương Ngọc dịch
Cải cách trước những phản ứng hay rơi trở lại hỗn loạn?
Sự sụp đổ của ngôi sao đang lên Bạc Hy Lai của Đảng trong nửa đầu
năm 2012 đã thu hút sự chú ý đáng kể về những vấn đề này. Lãnh đạo trung
ương bày tỏ lo ngại về khả năng của một trong số những thành viên của
họ nhằm thâu tóm quyền lực cá nhân khổng lồ, không bị chế ngự, đồng thời
thách thức các chuẩn mực lãnh đạo tập thể đã tồn tại từ thời kỳ đầu của
đổi mới hai thập kỷ trước. Các học giả và quan chức có tư tưởng tự do
lợi dụng sự kiện Bạc Hy Lai để chỉ trích việc Đảng Cộng Sản Trung Quốc
(ĐCSTQ) quay lưng chống lại các cải cách pháp lý kể từ đầu những năm
2000.
Một biếm họa được đưa lên mạng Sina Weibo của Trung Quốc cùng với tin tức về một chỉ thị 7 điểm mà các học giả ở Trung Quốc không được phép nói đến. (Ảnh: Sina/Internet)
Trong năm qua, đã xuất hiện dấu hiệu cho thấy rằng những phản ứng
chống lại cải cách pháp lý giờ đây đã có thể tạo ra một bước giật lùi.
Chính quyền trung ương đã tiến hành việc giáng cấp bộ máy pháp lý –
chính trị của ĐCSTQ. Tổng bí thư mới của ĐCSTQ, ông Tập Cận Bình, đã bắt
đầu khôi phục lại tiếng nói liên quan đến cuộc cải cách luật và tư pháp
đang bị lấn át trong những năm gần đây. Các nhà lãnh đạo hàng đầu của
Đảng đã công khai kêu gọi áp dụng các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền
trong các cuộc đối thoại về vấn đề duy trì ổn định xã hội. Một sách
trắng của Hội đồng Nhà nước mới gợi ý rằng các chiến dịch đấu tranh
chính trị trong ngành tư pháp gần đây có thể đã bị suy giảm.
Nếu được thực hiện, những thay đổi này có thể phản ánh một điểm giao
thời trong công cuộc cải cách tư pháp Trung Quốc. Chính quyền trung
ương có thể đã nhận ra rằng nếu Trung Quốc phải giải quyết các vấn đề
gây bức xúc của họ, thì nước này sẽ cần đến các thể chế quan trọng, nơi
có thể kiểm soát quyền lực của quan chức một cách độc lập và cung cấp
các kênh từ dưới lên trên cho người công dân tham gia.
Trung Quốc ngày hôm nay có thể đang đứng trước ranh giới của quá
trình chuyển đổi phức tạp tương tự như sự phát triển của Hàn Quốc và Đài
Loan vào những năm 1970 và 1980. Trong cả hai trường hợp Hàn Quốc và
Đài Loan, các nhà cầm quyền độc đoán đều đã theo đuổi cải cách chính trị
dần dần, mở cửa các cơ quan chính phủ để cho phép gia tăng áp lực công
dân từ bên ngoài, rồi từ từ mà thành công chuyển sang hệ thống chính phủ
tự do hơn. Ngày nay, cả hai quốc gia này đều đứng vững trong hàng ngũ
những nền dân chủ đã phát triển trên thế giới.
Nhưng không chắc rằng Trung Quốc sẽ hướng theo một đường lối có
triển vọng như vậy. Giới tinh hoa cầm quyền của ĐCSTQ có thể sẽ loại bỏ
cải cách hơn là chọn nó. Nếu xảy ra như vậy, Trung Quốc trong thế kỷ XXI
có thể sẽ giống với nước Nga ở thế kỷ XIX hơn là với Hàn Quốc và Đài
Loan ở thế kỷ XX.
Giống như Trung Quốc ngày hôm nay, vào cuối thế kỷ XIX, nước Nga Sa
hoàng trải qua những thập kỷ tăng trưởng kinh tế với tỷ lệ vượt qua nền
kinh tế Mỹ và các quốc gia châu Âu, mặc dù vẫn duy trì hệ thống chính
trị quan liêu độc đoán, và bị các quan sát viên nước ngoài cho rằng đã
lỗi thời. Khi thế kỷ sắp kết thúc, khắp nơi suy đoán liệu nước Nga có
thể vượt qua các cường quốc phương Tây về sức mạnh kinh tế và quân sự
hay không.
Bản thân nước Nga cũng phải vật lộn với những thay đổi nghiêm trọng ở
trong nước. Nỗi sỉ nhục quân sự trước các cường quốc phương Tây trong
cuộc chiến tranh quốc tế đầu tiên của thời đại công nghiệp (Chiến tranh
bán đảo Krym/Crimean 1853 – 1856) đã bộc lộ sự thua kém của Nga về công
nghệ. Kết quả là, nhà nước đế quốc Nga khởi động các cải cách kinh tế và
xã hội sâu rộng. Chế độ nông nô bị bãi bỏ và người nông dân có nhiều
quyền hơn. Công nghiệp hóa cơ cấu lại cuộc sống của Nga, mang lại một
làn sóng di cư từ nông thôn vào các nhà máy thành thị. Các cuộc biểu
tình của công nhân về điều kiện làm việc và tiền công đã bắt đầu diễn ra
thường xuyên hơn. Các phương tiện truyền thông xã hội của thời kỳ đó –
các ấn bản in định kỳ – cho phép tầng lớp ưu tú có giáo dục nhanh chóng
phổ biến những ý tưởng trên toàn quốc, thường phải dùng ngôn ngữ ám chỉ
hoặc mã hóa để tránh sự kiểm duyệt của đế quốc.
Chính quyền Sa hoàng cũng đưa ra các cải cách luật pháp sâu rộng. Họ
nhập khẩu thể chế luật pháp nước ngoài bao gồm các mô hình giáo dục về
luật; giới luật sư chuyên nghiệp; tòa án và bồi thẩm đoàn kiểu phương
Tây; các luật dân sự, thương mại, và hình sự. Sự phấn khích có thể cảm
nhận được. “Các khẩu hiệu trong những năm 1860 là đúng quy trình, thủ
tục tố tụng công khai, tòa xét xử có bồi thẩm đoàn, và các thẩm phán
không thể bị thay đổi” (8). Các quan chức thậm chí còn thành lập các hội
đồng đại diện địa phương bao gồm quyền tự trị có giới hạn.
Công dân rất háo hức với những kênh mới. Các nhà cải cách tìm cách
sử dụng hội đồng địa phương để từng bước đẩy chế độ đế quốc theo hướng
tự do hơn. Các nhà hoạt động cấp tiến đã tận dụng những tiến bộ mới mẻ
về luật như thủ tục tố tụng công khai và thẩm phán độc lập để biến nơi
xét xử thành nơi kêu gọi cho thay đổi chính trị lớn hơn. Năm 1878, một
kẻ vô chính phủ trẻ tuổi tên là Vera Zasulich đã trở thành một hiện
tượng truyền thông ngay lập tức, sau khi bà ta bị bắt vì cố gắng ám sát
một thống đốc của đế chế, các thẩm phán của phiên tòa đã chống lại những
nỗ lực can thiệp vào vụ án của chính phủ; luật sư của bà ta đã cố gắng
để biến các thủ tục tố tụng công khai thành một bản cáo trạng về sự tàn
bạo của cảnh sát; một bồi thẩm đoàn gồm các công dân đầy thiện cảm đưa
ra lời phán quyết “vô tội”; và những đám đông biến thành các cuộc biểu
tình công khai khi bà ta được thả.
Những sự phát triển đó gây ra lo ngại nghiêm trọng trong giới tinh
hoa chính trị. Giống như ở Trung Quốc ngày nay, các thể chế của nhà nước
pháp quyền bị hoài nghi bởi thái độ kiên quyết chống lại cải cách chính
trị cơ bản của chế độ độc tài – đặc biệt là sau khi những người theo
đuổi chủ nghĩa vô chính phủ ám sát nhà cải cách lúc đó là Sa hoàng
Alexander II vào năm 1881. Dưới quyền người kế vị, các nhà chức trách
Nga đã phát động việc đẩy lùi các chính sách tự do kéo dài trong hai
thập kỷ. Họ hạn chế xét xử công khai, giới hạn quyền của bồi thẩm đoàn,
yêu cầu kiểm soát các hiệp hội luật sư, loại bỏ xét xử các vụ án chính
trị ra khỏi hệ thống tòa án thông thường, và làm giảm đáng kể các quyền
hạn của hội đồng địa phương.
Bắt đầu từ cuối những năm 1870, chính quyền đế quốc cũng đã xây dựng
được một nhà nước cảnh sát rộng khắp (người ta có thể gọi đó là “duy
trì ổn định xã hội với những đặc tính của Nga”). Họ ngày càng thu hồi
trách nhiệm duy trì luật pháp và trật tự ra khỏi sự kiểm soát của thẩm
phán và trao nó cho cảnh sát, và cho cả Okhrana (cơ quan mật vụ của chế
độ Sa hoàng). Những nhân viên này được phép mở rộng quyền hạn một cách
đáng kể, cho phép họ bắt giữ và đày ải bất cứ ai trong nước, thậm chí
ngày cả những người bị tình nghi là tội phạm chính trị.
Tất nhiên là các biện pháp này không thành công trong việc loại trừ
bất đồng chính kiến. Sự tồn tại của sở hữu tư nhân có nghĩa là có những
giới hạn đối với quyền lực của đế quốc. Những nhà bảo trợ giàu có tiếp
tục tạo việc làm cho các nhà trí thức cải cách, bất chấp những nỗ lực
của nhà nước nhằm cô lập họ. Các tác giả bất đồng chính kiến tiếp tục
tìm kiếm thị trường cho các tác phẩm của họ, bất kể các nỗ lực kiểm
duyệt của nhà nước.
Hệ quả cơ bản của hành động phản cải cách của Sa hoàng vào cuối thể
kỷ XIX là một xã hội bị cực đoan hóa. Hành vi quay lưng chống lại luật
pháp của đế quốc đã thuyết phục phe ôn hòa rằng cải cách chế độ dần dần
là không thể được. Những thập kỷ đàn áp mù quáng của nhà nước đã hội tụ
các phe phái ủng hộ chủ nghĩa hợp hiến tự do, phe khủng bố vô chính phủ,
phe chủ nghĩa dân tộc tôn giáo, phe xã hội chủ nghĩa cấp tiến, và giới
công dân bình thường bị tổn thương bởi các hành vi vi phạm quyền của họ.
Nó khiến cho tất cả các phe nhóm trên tiếp nhận những lập trường chính
trị cực đoan hơn.
Hơn nữa, khi sự cai trị của đế quốc bước vào thời kỳ suy yếu, các
chính sách cứng rắn đã giúp ngăn chặn sự xuất hiện của bất kỳ tổ chức
hay thể chế đối lập chính trị nào. Như Trung Quốc hiện tại, đế quốc Nga
không có phong trào dangwai Đài Loan (bên ngoài Đảng), không có các đảng
đối lập chính trị Hàn Quốc, không có Công đoàn Đoàn kết Ba Lan. Đế quốc
Nga nghiền nát bất kỳ nỗ lực nào của các tổ chức này. Điều này tạo ra
một vẻ ổn định chính trị bề ngoài. Nhưng nó cũng đảm bảo rằng không tồn
tại một lực lượng thống nhất nào để bước vào khoảng trống và thu gom
quyền lực trên đường phố khi nhà nước Sa hoàng rốt cuộc sụp đổ. Thay vào
đó, chỉ còn lại một nhóm hỗn loạn gồm những kẻ mạnh về quân sự, những
đám đông hỗn tạp, nhóm trí thức cực đoan, và những kẻ quyết tâm làm cách
mạng bí mật – bị đẩy xuống xe lửa tại nhà ga Phần Lan một cách đáng
ngại – đã trở nên dày dạn sau những thập kỷ bị đàn áp.
Tất nhiên, Trung Quốc còn chưa đến mức đó. Mặc dù tình trạng bất ổn
trong nước ngày càng gia tăng, tăng trưởng kinh tế bị chậm lại, và căng
thẳng gia tăng với các nước láng giềng, các nhà lãnh đạo trung ương vẫn
duy trì vững chắc các đòn bẩy quyền lực. Mặc dù các quan chức gần đây
quay lưng chống lại các cải cách luật pháp, hầu hết các nhà hoạt động
vẫn còn hy vọng (và đòi hỏi) cải cách dần dần của nhà nước Trung Quốc.
Họ không mong muốn một biến động cực đoan sẽ có thể phá hủy nhà nước. Họ
muốn một sự hạ cánh nhẹ nhàng hơn là khó khăn.
Nhưng những nguy cơ của một cuộc hạ cánh khó khăn là có thật. Áp lực
đang nổi lên. Cần có các kênh pháp lý và chính trị công khai để hướng
chúng theo sự thay đổi dần dần. Nếu Trung Quốc không xây dựng những điều
đó ngay bây giờ, nó sẽ không chỉ đơn giản là làm chệch hướng quá trình
chuyển đổi, mà còn lao thẳng vào một tai họa lớn.
[*] Carl Minzner là Giáo sư Luật tại Đại học Fordham. Một chuyên
gia về pháp luật và quản lý nhà nước Trung Quốc, Minzner đã viết nhiều
về các chủ đề này trong cả tạp chí khoa học và báo chí đại chúng. Các
bài viết thể hiện quan điểm cá nhân của ông đã xuất hiện trên tờ New
York Times, Los Angeles Times, và Christian Science Monitor.
Ông đã từng là Cố vấn cao cấp của Ủy ban Đđiều hành Quốc hội về
các vấn đề Trung Quốc. Ông cũng là một thành viên của Hội đồng Quan hệ
Đối ngoại về các vấn đề quốc tế năm 2006-2007, đồng thời là thành viên
Ngành Giáo dục pháp lý liên kết Đại học Yale – Trung Quốc tại Học viện
Xibei về Chính trị và Luật pháp ở Tây An, Trung Quốc. Ông cũng làm việc
với tư cách cộng sự cấp cao tại McCutchen & Doyle (Palo Alto, CA),
và một thư ký luật cho ông Hon. Raymond Clevenger của Tòa án Phúc thẩm
Liên bang. Minzner có bằng cử nhân của Đại học Stanford, bằng M.I.A của
Đại học Columbia về vấn đề quốc tế và công cộng, và một bằng Luật của
trường Luật Columbia. [*]
GHI CHÚ
1. Một số nội dung và ngôn từ được chuyển thể từ bài viết ” Trung
Quốc quay lưng với Luật” của Carl Minzner, American Journal of
Comparative Law 59 (Thu 2011): tr. 935–84.↩
2. Andrew J. Nathan, “Thay đổi Lính canh Trung Quốc: Khả năng phục
hồi sự chuyên chế,” Journal of Democracy 14 (tháng 1 năm 2003):. 13-15 ↩
3. Keith J. Hand, “Hiểu hệ thống Trung Quốc để giải quyết xung đột
pháp lý,” Columbia Journal of Asian Law (sắp xuất bản năm 2013). ↩
4. Keith J. Hand, “Sử dụng Luật cho mục đích chính đáng: Sự cố Sun
Zhigang và Sự nổi lên các hình thức công dân hành động ở Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa,” Columbia Journal of Transnational Law 45, no. 1 (2006):
127–31.↩.
5. Wei Lihua and Jiang Xu, “Sifa shenpan zhong de renmin qinghuai yu
qunzhong luxian” [Tình cảm và đường lối đại chúng trong việc thử nghiệm
tư pháp], trang Web tòa án Trung Quốc, truy cập ngày 22 tháng 6 năm
2011, chỉ có tiếng Trung Quốc: www.chinacourt.org / html / article/201106/22/455318.shtml. ↩
6. Minzner, ” Trung Quốc quay lưng với Luật,” Minzner, 947. ↩
7. “Dui Hua ước tính 4.000 vụ hành quyết ở Trung Quốc, hoan nghênh
đối thoại công khai”, trang Web của Dui Hua, ngày 12 Tháng 12 năm 2011,
tại http://duihua.org/wp/?page_id=3874. ↩
8. Richard Pipes, Nước Nga dưới chế độ cũ (London: Weidenfeld và Nicolson, 1974), 295 ↩.
Nguồn: CARL MINZNER, “China at the Tipping Point?“, ChinaFile, ngày 11 Tháng Bảy 2013.
Bản Tiếng Việt © 2013 The Pacific Chronicle